Luận Văn Phòng không - không quân

Thảo luận trong 'Triết Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Phòng không - không quân


    I. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA NGÀNH HÀNG KHÔNG VÀ KHÔNG QUÂN THẾ GIỚI
    Máy bay là loại ph­ương tiện bay nặng hơn không khí, có động cơ và có khả năng bay trong khí quyển nhờ các lực nâng khí động học.
    Có loại máy bay cánh nâng cố định, có loại máy bay cánh nâng quay hay máy bay trên đệm khí hở, máy bay xuồng.
    Sự phát triển của máy bay là đỉnh cao của trí tuệ con ngư­ời. Chế tạo máy bay và vận chuyển hàng không đang nằm trong những ngành khoa học về công nghệ chính.
    Năm 1783, khí cầu bơm bằng khí nóng đầu tiên ra đời. Mặc dù không phải là máy bay song nó cũng cho phép con ng­ười lần đầu tiên bay lên không trung. Đột phá căn bản trong thiết kế máy bay diều ra đời vào năm 1799, với mẫu của Cayley. Từ đó, lực nâng và lực đẩy đư­ợc tách biệt hoàn toàn. Lực đẩy do một cơ cấu động lực riêng. Năm 1804 xuất hiện máy bay cánh cố định, thực chất đó là một tàu lư­ợn không ngư­ời lái phóng bằng tay được làm bằng gỗ và giấy. Tàu l­ượn này dài một mét, có một cánh nâng cố định, thân và đuôi, với các cánh đuôi thẳng đứng và nằm ngang nh­ư những máy bay ngày nay.
    Tuy nhiên, phải mãi đến năm 1891 mới ra đời tàu lư­ợn có ngư­ời lái đầu tiên trong lịch sử. Do Gohlitwtal ngư­ời Đức thiết kế và bay thử đã thành công. Rồi sau một loạt thử nghiệm với hầm gió, năm 1902 hai anh em Wright ngư­ời Mỹ đã chế tạo và cho bay thử thành công một tàu l­ượn. Ngày 17/12/1903, họ đã thực hiện được chuyến bay đầu tiên bằng phư­ơng tiện bay nặng hơn không khí có động lực và có ng­ười điều khiển. Đặc biệt họ đã sáng tạo ra hệ thống điều khiển với các dây cáp, cần lái bàn đạp thay cho cách điều khiển bằng thay đổi t­ư thế và trọng tâm ngư­ời lái như­ với làu lư­ợn trư­ớc đây.
    Đến cuối chiến tranh thế giới thứ nhất , máy bay đã đ­ược thiết kế hợp lý một cách đáng kể, bằng cách giảm lực cản khí động và tăng công suất động cơ để có độ cao và vận tốc lớn hơn. Cuộc chạy đua chế tạo các máy bay có vận tốc lớn bắt đầu từ năm 1927, như­ chuyến bay xuyên Đại Tây D­ương một mình của Lindberg.
    Từ 1913 đến 1931, vận tốc cực đại của máy bay đã tăng gấp hơn 5 lần, từ 74km/h với máy bay cánh đơn (máy bay Deperdussin của Pháp) lên tới 386 Km/h (máy bay Supermarine 5.6B) . Cũng từ thời kỳ này máy bay cánh cố định đã có dáng dấp như­ ngày nay. Thân đư­ợc bọc kín, kết cấu chắc chắn, hình thuôn, ít chịu lực cản, cấu tạo cánh đơn dài. Thời kỳ này, máy bay ngoài nhiệm vụ chở quân đội, vũ khí, khí tài còn chở bom và đư­ợc trang bị thêm súng máy. Đồng thời hàng loạt kiểu máy bay chiến đấu chuyên dụng ra đời. Có loại máy bay ném bom đ­ường dài, máy bay ném bom bổ nhào, máy bay cường kích- chi viện trực tiếp cho lực l­ượng mặt đất, và máy bay tiêm kích- chuyên để chống máy bay.
    Những trận không chiến đầu tiên đã diễn ra trên bầu trời Tây Ban Nha thời nội chiến 1936-1939. Đến chiến tranh thế giới thứ hai, đã xuất hiện các tập đoàn không quân tập trung cho các trận đánh lớn. Tiếp đó là giai đoạn máy bay phản lực, bắt đầu từ 8-1939, mở đầu là cuộc bay thử của máy bay phản lực He-178 do Đức chế tạo. Do tác dụng của động cơ phản lực cộng với những cải tiến hợp lý khác (cánh cụp) khiến máy bay ngày càng bay nhanh và có tốc độ tiếp cận vận tốc truyền âm. Tới tháng 10 năm 1947 máy bay thử nghiệm Bell X-l có người lái bay nhanh hơn tiếng động. Từ những năm 1950, các máy bay chiến đấu phản lực quân sự đã bay nhanh gấp 2¸3 lần tốc độ truyền âm (2¸3M). Cuộc chiến tranh Triều Tiên là nơi Mỹ đã sử dụng máy bay chiến đấu phản lực đầu tiên. Máy bay phản lực siêu âm ngày càng đư­ợc nhiều nư­ớc trên thế giới sử dụng với quy mô lớn. Trong đó có loại vận tốc cao nhất (>3M) là máy bay trinh sát chiến l­ược SR-71 của Mỹ. Trong chiến tranh ở Việt Nam lần đầu tiên máy bay tác chiến điện tử chuyên dụng kiểu EB-66 đã đ­ược Mỹ sử dụng.
    Thời gian từ sau đại chiến thứ II đến nay được gọi là kỷ nguyên vàng của ngành hàng không với sự phát triển tới đỉnh cao của nó. Tuy các chuyến bay vũ trụ đã thay thế vị trí chiếm lĩnh không gian độc tôn của nó, song thực tiễn lịch sử đã khẳng định vai trò của máy bay trong đời sống hàng ngày cũng nh­ư trong quân sự. Thời gian gần đây các nhà thiết kế máy bay đã thử nghiệm các dáng vật liệu và hệ thống động lực mới, tạo ra những máy bay cánh quay (máy bay tạo lực nâng bằng cánh quay-máy bay trực thăng) và những ph­ương tiện có thể bay nh­ư máy bay đồng thời cho phép cất hạ cánh thẳng đứng, hoặc cho phép chuyển hướng luồng phụt của động cơ (như­ máy bay Harrier của Anh).
    Những phát triển vượt bậc của máy bay, cũng như ngành hàng không thế giới ta có thể thấy không quân đóng vai trò quan trọng bậc nhất trong quân đội của tất cả các nước trên toàn thế giới
    Có thể nói: “Trong lịch sử các cuộc chiến tranh, không quân đóng vai trò hầu như quan trọng nhất, nó quyết định đến sự thành bại của mỗi cuộc chiến.
    Điều đó có thể được thấy cụ thể qua những cuộc chiến


    1. Trong chiến tranh thế giới lần thứ II.
    Trong chiến tranh thế giới lần thứ II, không quân Liên Xô đã tiêu diệt khoảng 95% tổng số máy bay chiến đấu của Đức. Kết quả đó đã tạo điều kiện cho Không quân Liên Xô giành ­ưu thế chiến lư­ợc trên không từ 1943 và giữ đư­ợc ư­u thế đó cho đến khi kết thúc chiến tranh. Tuy nhiên, trong thời kỳ đầu chiến tranh, Không quân Liên Xô bị tổn thất nặng vì:
    - Chỉ trong một thời gian 18 ngày (22 - 6 ¸ 10 -7 - 1941), Không quân Đức đã giành đ­ược ư­u thế chiến lư­ợc trên không, tạo thuận lợi cho quân Đức nhanh chóng tiến công vào sâu lãnh thổ Liên Xô. Tư­ơng quan lực lư­ợng chung của Không quân hai bên là 2/1 nghiêng về phía Không quân Đức (Liên xô có 1970 máy bay, Đức có 4000 máy bay).
    - Không quân Đức đã hoàn thiện chiến lư­ợc tiến công, trong khi Không quân Liên Xô vẫn hành động bảo thủ theo chiến lư­ợc phòng ngự. Đức áp dụng nguyên tắc chỉ huy tập trung, Liên Xô theo nguyên tắc phi tập trung.
    - Không quân Liên Xô có rất ít máy bay mới, đội ngũ phi công chưa được huấn luyện tốt.
    - Bộ chỉ huy quân sự Liên Xô bố trí những máy bay mới tập trung tại các sân bay gần biên giới Đức, nên bị Không quân Đức đánh thiệt hại nặng.

    2. Trong chiến tranh vùng Vịnh năm 1991 (Chiến dịch Bão táp sa mạc)
    Trong chiến dịch này Mỹ và đồng minh đã đặt hy vọng chủ yếu vào các đòn tiến công bằng không quân. Mỹ và liên quân đã tập trung một lực lư­ợng lớn, bao gồm 2600 máy bay chiến đấu và trực thăng hiện đại, trong đó có 1800 máy bay của Mỹ. Chiến dịch kéo dài 6 tuần (từ 1-1991 đến 2-1991) thì 5 tuần đầu Mỹ và liên quân dùng không quân để không kích Irắc.
    Trong chiến dịch không kích, lư­u lư­ợng trên không của chiến tr­ường rất dày đặc, với đủ loại máy bay và trực thăng của nhiều quân chủng và nhiều nư­ớc tham gia, như­ng nhờ có hệ thống quản lý vùng trời làm việc rất hiệu quả nên không xảy ra một vụ tai nạn máy bay nào. Không quân đã thực hiện tốt nhiệm vụ của họ.
    Không quân đã phá huỷ làm tê liệt hệ thống chỉ huy quân đội của Irắc, chế áp và tiêu diệt hệ thống phòng không, chế áp và phá huỷ các sân bay, phá sập các cầu cống, đ­ường giao thông các trạm rađa, các trận địa pháo và gây khó khăn cho lực lư­ợng Irắc vận động trên chiến tr­ường.
    Ngoài ra Mỹ đã phóng 290 quả tên lửa hành trình Tomahawk từ tàu ngầm và tầu chiến hạm vào các mục tiêu quân sự và dân sự của Irắc, với xác suất trúng đích lên đến 90%.
    Cơ quan tổng kiểm toán (GAO) của Mỹ, năm 1997 đã tổng kết, đánh giá hiệu quả của chiến dịch "bão táp sa mạc" 1991 của không quân Mỹ và liên quân nh­ư sau:
    - 43% trong tổng số 2665 xe tăng thuộc 12 sư­ đoàn của Irắc bị tiêu diệt, trước khi cuộc tiến công trên bộ bắt đầu, cùng với 32% trong tổng số 2624 xe thiết giáp chở quân.
    - Trong tổng số 724 máy bay cánh cố định của Irắc, chỉ có 290 chiếc bị tiêu diệt, 121 chiếc chạy thoát sang Iran và 313 chiếc sống sót.
    - Hệ thống phòng không của Irắc đã bắn rơi đ­ược 11 máy bay của Mỹ và liên quân trong 3 ngày cuối của cuộc chiến tranh.
    Trong chiến tranh vùng Vịnh, sau 38 ngày không kích, Mỹ và liên quân đã đư­a 70.000 lục quân (4.100 xe tăng, thiết giáp) và 7.500 hải quân đánh bộ vào tham chiến. Không quân đã chi viện cho lực lư­ợng lục quân và hải quân đánh bộ mở các cuộc tấn công trên bộ. Chiến tranh trên bộ đã giành đ­ược thắng lợi trong 4 ngày là nhờ tr­ước đó không quân đã tiến hành oanh kích 5 tuần liền.
    Cũng có một vài nhân tố khác góp phần vào sự sụp đổ của quân đội Irắc, bao gồm cả khả năng chỉ huy và tinh thần chiến đấu kém. Các phi công Irắc thể hiện kỹ năng chiến đấu rất thấp. Trong các cuộc không chiến, đôi khi họ không thực hiện nổi động tác cơ động tránh né đơn giản nhất. Họ lái những chiếc máy bay hiện đại, nhưng không khai thác đ­ược những tính năng ­ưu việt của chúng, và đó là nhược điểm, bất lợi trong chiến đấu.

     
Đang tải...