Tiểu Luận Phép biện chứng duy tâm của hegel

Thảo luận trong 'Triết Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    MỤC LỤC
    MỤC LỤC . . 1
    LỜI MỞ ĐẦU . . 2
    I. ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ VÀ NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC CỔ
    ĐIỂN ĐỨC: . 3
    1. Điều kiện lịch sử: . .3
    2. Những đặc điểm cơ bản: . 3
    II. PHÉP BIỆN CHỨNG DUY TÂM CỦA HEGEL - NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN
    CHẾ: . .6
    1. Phép biện chứng duy tâm khách quan về ý niệm tuyệt đối: . 6
    2. Phép biện chứng duy tâm về triết học: . .7
    3. Phép biện chứng duy tâm trong khoa học logic: . .8
    4. Phép biện chứng duy tâm về nhà nước: . .11
    5. Phép biện chứng duy tâm của Hegel: . .13
    KẾT LUẬN . . 20
    LỜI MỞ ĐẦU
    Nền triết học cổ điển Đức là nền triết học được tạo nên từ cuối thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ
    XIX là thành tựu rực rỡ của nền văn minh Tây Âu và thế giới. Đây là đỉnh cao của thời kỳ
    triết học Tây Âu, đồng thời có ảnh hưởng to lớn đến triết học hiện đại triết học cổ điển
    Đức. Vì vậy, nó trở thành một trong ba nguồn gốc hình thành chủ nghĩa Marx - nguồn gốc
    triết học (cùng với kinh tế chính trị học Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp).
    Nền triết học cổ điển Đức là khúc dạo đầu cho một bản nhạc giao hưởng, bản hợp xướng
    của triết học Tây Âu. Một giai đoạn lịch sử khởi nguyên tiềm tàng của triết học nhân loại,
    làm tiền đề cho toàn bộ hệ thống triết học sau này. Nền triết học thời cận đại là khoảng
    lặng của những phách nhạc thời gian trải qua hàng ngàn năm và mới được thăng hoa lên
    những nốt thăng cung bậc là thời kỳ hiện đại. Đây là giai đoạn quan trọng bừng dậy sau
    dấu lặng mà khoảng trắng quá dài. Từ những âm ba của những nốt nhạc thăng trầm đó mà
    ta có cả nền triết học hiện đại như ngày nay. Trong bản giao hưởng đầy tính bác học của
    triết học Tây Âu mà khúc dạo đầu lại rực rỡ âm sắc trang hoàng đó là tư tưởng biện chứng
    triết học cổ điển Đức, nó bức ra khỏi những nốt nhạc trời đầy màu sắc thần linh để khảy
    lên bằng chính đôi tay người phàm tục. Những đôi tay vàng ấy được phản ánh qua những
    triết gia dệt nên những trang bất hữu bởi thời gian. Đặc biệt là tư tưởng biện chứng của
    triết học cổ điển Đức thể hiện thông qua một số đại biểu tiêu biểu như: Canter, Hegel,
    Feurbach.
    Tuy đứng trên lập trường duy tâm nhưng các nhà triết học cổ điển Đức đã xây dựng nên
    các hệ thống triết học độc đáo, đề xuất được tư duy biện chứng, logic biện chứng, học
    thuyết về các quá trình phát triển mà tìm tòi lớn nhất trong tất cả các tìm tòi của họ đó là
    phép biện chứng. Với cách nhìn tổng quát về phương pháp biện chứng, các nhà triết học cổ
    điển Đức có ý đồ hệ thống hóa toàn bộ tri thức và thành tựu mà nhân loại đã đạt được.
    Trong số các nhà triết học vĩ đại nhất đó không thể không kể tới Georg Wilhelm Friedrich
    Hegel. Ông là nhà biện chứng lỗi lạc, phép biện chứng của ông là một tiền đề lý luận quan
    trọng của triết học Mácxit. Triết học của Hegel có ảnh hưởng rất mạnh đến tư tưởng của
    nước Đức và cả Châu Âu đương thời, triết học của ông được gọi là "tinh thần Phổ". Phép
    biện chứng của Hegel là phép biện chứng duy tâm, tức là phép biện chứng về sự vận động
    và phát triển của các khái niệm được ông đồng nhất với biện chứng sự vật.
    Không chỉ là đại biểu tiêu biểu của nền triết học cổ điển Đức mà Hegel đã đem lại cho triết
    học địa vị vốn có và sứ mệnh cao cả của nó trong đời sống tinh thần nhân loại. Với những
    luận cứ sâu sắc và có cơ sở khoa học, Hegel đã làm sáng tỏ đối tượng, chức năng và
    phương pháp của triết học, mối quan hệ của triết học với các khoa học khác và qua đó,
    trình bày một cách khúc chiết, đúng đắn bản chất của triết học.
    I. ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ VÀ NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC CỔ
    ĐIỂN ĐỨC:
    1. Điều kiện lịch sử:
    Triết học cổ điển Đức ra đời trong điều kiện lịch sử hết sức đặc biệt. Nước Đức vào
    cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX vẫn còn là một quốc gia phong kiến điển
    hình với 360 tiểu vương quốc tự lập trong một liên bang Đức chỉ còn là hình thức,
    lạc hậu về kinh tế và chính trị. Thủ công nghiệp, công nghiệp, nông nghiệp bị đình
    đốn. Lúc này vương triều Phổ Phriđrich Vin Hem vẫn tăng cường quyền lực duy trì
    chế độ quân chủ, cản trở đất nước phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa. Cả
    đất nước bao trùm bầu không khí bất bình của đông đảo quần chúng.
    Trong khi đó ở nước Pháp đã tiến hành cuộc cách mạng tư sản. Ở nước Anh thực
    hiện cuộc cách mạng công nghiệp làm rung chuyển châu Âu, đưa châu Âu bước
    vào nền văn minh công nghiệp. Tấm gương của các nước Tây Âu đã thức tỉnh tinh
    thần cách mạng của giai cấp tư sản Đức và những bộ phận tiến bộ khác của xã hội
    Đức. Nhưng vì giai cấp tư sản Đức lúc này tỏ ra hèn kém, những lực lượng tiến bộ
    khác nằm rải rác ở những vương quốc nhỏ tách rời nhau, nhỏ bé về số lượng, yếu
    kém về kinh tế và chính trị nên không thể tiến hành cách mạng tư sản trong thực
    tiễn mà chỉ tiến hành cách mạng về phương diện tư tưởng. Người ta nói rằng tương
    lai của tư sản nước Đức vẫn còn rất xa vời. Họ muốn thỏa hiệp với tầng lớp phong
    kiến quý tộc Phổ, giữ lập trường cải lương trong việc giải quyết những vấn đề phát
    triển đất nước. Nhưng với tinh thần cách mạng của mình, giai cấp tư sản Đức phải
    tìm cách nào đó để thể hiện tinh thần đó và đã gửi gắm vào trong triết học cổ điển
    Đức. Đồng thời, trước đòi hỏi của quá trình phát triển phương thức sản xuất tư bản
    ở các nước Tây Âu, khoa học tự nhiên đã đạt nhiều thành tựu lớn: phát hiện ra điện,
    phát hiện ra ôxy và bản chất sự cháy của Lavoadie; việc phát hiện ra tế bào của
    Lơvenhuc; học thuyết về dưỡng khí của Pritski và Sielo . Những thành tựu đó
    chứng tỏ sự hạn chế của phương pháp tư duy siêu hình trong việc lý giải bản chất
    của các hiện tượng tự nhiên và thực tiễn xã hội đang diễn ra. Nó đòi hỏi cần
    có cách nhìn mới, phương pháp mới, quan niệm mới về vai trò và khả năng của con
    người. Triết học cổ điển Đức ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu đó.
    2. Những đặc điểm cơ bản:
    - Triết học cổ điển Đức là tiếng nói của giai cấp tư sản Đức nhằm phê phán trật
    tự xã hội đương thời. Tuy nhiên, tinh thần phê phán đó là tinh thần mang tính
    ôn hòa. Người ta nói rằng: triết học cổ điển Đức là sự thể hiện cách mạng tư sản
    Pháp trên nước Đức. Triết học cổ điển Đức nhằm phê phán trật tự xã hội đương
    thời, vẫn còn dưới sự thống trị của vương triều Phổ. Tuy nhiên, nếu so sánh tinh
    thần phê phán của triết học cổ điển Đức vào nửa đầu thế kỷ XIX với tinh thần
    phê phán của triết học Tây Âu thế kỷ XVII thì tinh thần phê phán đó mang tính
    Phép bieän chöùng duy taâm cuûa Hegel - Nhöõng giaù trò vaø haïn cheá
    ôn hòa hơn, nó không quyết liệt bằng tinh thần phê phán của triết học Tây Âu
    thế kỷ XVII - XVIII vì nó được bao bọc bởi những vỏ sinh tâm thần bí trong
    triết học của Hegel hay Canter, Phicter Điều này được cắt nghĩa bởi hai lý
    do:
    ƒ Sự hèn kém của giai cấp tư sản Đức.
    ƒ Tinh thần phê phán của triết học cổ điển Đức được gửi gắm vào các triết gia
    người Đức. Phần lớn các triết gia này là giáo sư ăn lương nhà nước, đảm
    nhận công việc khai mở trí tuệ cho thanh niên, vì vậy tinh thần phê phán đó
    không quyết liệt được. Đó là điều hiển nhiên. Ngay cả Hegel cũng là giáo
    sư dạy trong trường đại học hay là Feurbach Feurbach trình bày quan
    điểm duy vật của mình đã bị nhà nước Phổ tước bằng giáo sư.
    Chính vì vậy triết học cổ điển Đức mang tính ôn hòa.
    - Triết học cổ điển Đức tiếp tục truyền thống đề cao lý trí trong triết học phương
    Tây nhưng đề cao lý trí trong điều kiện kinh tế, xã hội chưa thực sự phát triển
    đã dẫn đến sự ra đời của chủ nghĩa duy tâm.
    Truyền thống này bắt nguồn từ Hy Lạp cổ đại, được khẳng định qua các thời
    đại lịch sử. Người ta đặc biệt đề cao lý trí vào thế kỷ XVII - XVIII trong triết
    học của Bacon hay Descartes Đến đầu thế kỷ XIX, trong triết học cổ điển
    Đức, Hegel đã dệt nên cả một huyền thoại về lý trí, thậm chí Hegel biến lý trí
    thành bản thể sáng tạo ra giới tự nhiên và toàn thể nhân loại. Đề cao trí tuệ là
    chưa từng có trong lịch sử. Nhưng cái gì cũng mang tính hai mặt. Đề cao lý trí
    thể hiện sự đề cao con người, nhưng đề cao lý trí trong điều kiện kinh tế chưa
    phát triển thì sự ra đời, phát triển của chủ nghĩa duy tâm là điều tất nhiên. Lúc
    này nước Đức bao trùm bởi chủ nghĩa duy tâm. Duy tâm điển hình là khách
    quan của Hegel nhưng chủ quan của Canter. Nước Đức lúc này nền kinh tế
    dường như phát triển nhất các nước Châu Âu. Đề cao trí tuệ nhưng đi quá giới
    hạn rơi vào chủ nghĩa duy tâm. Đây cũng là một trong những nguồn gốc của
    chủ nghĩa duy tâm. Chủ nghĩa duy tâm có hai nguồn gốc:
    ƒ Đề cao trí tuệ nhưng quá giới hạn rơi vào chủ nghĩa duy tâm.
    ƒ Đề cao lao động trí óc đi quá giới hạn rơi vào chủ nghĩa duy tâm.
    Ở nước Đức là trường hợp thứ nhất. Đề cao trí tuệ là điều không thể phủ nhận,
    đây cũng là một trong những cống hiến của triết học cổ điển Đức. Đề cao trí tuệ
    như nước Đức là chưa từng có.
    - Triết học cổ điển Đức có những đóng góp to lớn với sự phát triển văn hóa và
    khoa học của nhân loại, đóng góp lớn nhất là đóng góp về phép biện chứng gắn
    liền với tên tuổi của Hegel, đóng góp thứ hai là đóng góp về thế giới quan duy
    vật (chủ nghĩa duy vật) gắn liền với tên tuổi của L.L.Feurbach (1804 - 1872).
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...