Đồ Án phát triển thương mại trong nước 2006 - 2010, định hướng đến 2020

Thảo luận trong 'Chưa Phân Loại' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    ĐỀ ÁN "PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI TRONG NƯỚC 2006 - 2010, ĐỊNH HƯỚNG ĐẾN 2020"


    Mười năm qua, thương mại trong nước đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, tạo nên sự biến đổi sâu sắc trên thị trường, góp phần phục vụ ngày một tốt hơn sản xuất và đời sống cũng như sự tăng trưởng chung của nền kinh tế.
    Vị trí, vai trò của thương mại trong nước được nhận thức rõ hơn, nhất là vào những năm cuối của thập kỷ 90, khi xẩy ra cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ ở khu vực làm cho hoạt động ngoại thương của Việt Nam sút giảm. Nhờ mở rộng thị trường nội địa mà giữ được nhịp độ tăng trưởng bình quân của nền kinh tế giai đoạn 1996 - 2000 ở mức 7%/năm. Thương mại trong nước phát triển đã tiếp tục góp phần đưa tốc độ tăng trưởng GDP giai đoạn 2001-2005 cao hơn giai đoạn 1996 - 2000 với tốc độ tăng GDP bình quân hàng năm là 7,5%/năm.
    Tuy nhiên, so với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và đối chiếu với vai trò, vị trí của mình trong nền kinh tế quốc dân, thương mại trong nước đang còn những hạn chế và yếu kém, trong đó chủ yếu là về tổ chức và hoạt động. Xét về tổng thể, thương mại trong nước còn yếu về năng lực tài chính, kém về hạ tầng kỹ thuật và thấp về trình độ chuyên nghiệp.
    Tiếp theo Nghị quyết 12 của Bộ chính trị về tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động thương nghiệp, phát triển thị trường theo định hướng XHCN (1996), Quyết định 311/QĐ-TTg ngày 20/3/2003 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án "Tiếp tục tổ chức thị trường trong nước, tập trung phát triển thương mại nông thôn đến năm 2010", để phát triển mạnh hơn nữa thương mại trong nước, qua đó tạo cơ sở cho phát triển xuất khẩu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của sản xuất và tiêu dùng, tạo tiền đề cho chủ động hội nhập và mở cửa thị trường dịch vụ phân phối, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo Bộ Thương mại xây dựng và triển khai thực hiện Đề án "Phát triển thương mại trong nước giai đoạn 2006-2010, định hướng đến năm 2020".
    PHẦN THỨ NHẤTĐÁNH GIÁ KHÁI QUÁT TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI TRONG NƯỚC 10 NĂM QUA (1996 - 2005)
    I. NHỮNG THÀNH TỰU
    Mười năm qua, hoạt động thương mại trong nước đã đạt được những thành tựu quan trọng, đó là:
    1. Thương mại trong nước liên tục phát triển với tốc độ cao, nhờ đó đã đáp ứng được nhu cầu của sản xuất, phục vụ tiêu dùng, phát triển xuất khẩu; góp phần vào tăng trưởng chung của nền kinh tế và quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá
    Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng (TMBLHH) liên tục tăng qua các năm:
    Giai đoạn 1996-2000:
    - Năm 1996: đạt 145.874 tỷ đồng,
    - Năm 2000: đạt 220.410,6 tỷ đồng,
    - Tốc độ tăng bình quân hàng năm: gần 11%/năm.
    Giai đoạn 2001-2005:
    - Năm 2001: đạt 245.315 tỷ đồng,
    - Năm 2005: đạt 480.300 tỷ đồng,
    - Tốc độ tăng bình quân hàng năm: 18,3%/năm.
    Tính chung trong 10 năm qua, tốc độ tăng trưởng bình quân của TMBLHH luôn cao từ 1,5 - 2 lần so với tốc độ tăng trưởng bình quân của GDP cùng kỳ (biểu 1phần Phụ lục).
    Đóng góp của thương mại trong nước vào GDP cũng gia tăng liên tục qua các năm:
    - Năm 1996: 43.125 tỷ đồng,
    - Năm 2000: 62.836 tỷ đồng;
    - Năm 2001: 67.788 tỷ đồng,
    - Năm 2005: 113.768 tỷ đồng.
    Tính chung, đóng góp của thương mại trong nước chiếm tỉ trọng khoảng 13,5 - 14 % trong GDP, chỉ sau ngành công nghiệp chế biến (khoảng 20%) và ngành nông nghiệp (khoảng 16 - 18%) (biểu 2 phần Phụ lục).
    Thương mại trong nước hàng năm đã giải quyết thêm hàng trăm ngàn việc làm cho xã hội.
    Giai đoạn 2001-2005:
    - Năm 2001: có 4.046.500 lao động,
    - Năm 2005: có 5.192.200 lao động,
    - Số lao động tăng thêm trong 5 năm: trên 1.100.000 người,
    - Tỉ lệ lao động tăng bình quân hàng năm: 6,3%/năm.
    Đến năm 2005, lao động của ngành chiếm trên 12% tổng lao động xã hội, tương đương với ngành công nghiệp chế biến và bằng 1/6 số lao động trong ngành nông nghiệp. Khả năng tạo việc làm của ngành thương mại cao hơn so với bình quân chung của toàn nền kinh tế quốc dân. Nếu như tỉ lệ tăng bình quân hàng năm giai đoạn 2001 - 2005 về việc làm của toàn nền kinh tế là 2,6%, thì tỉ lệ đó của thương mại trong nước là 6,3% (biểu 3 phần Phụ lục).
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...