Luận Văn Phát triển thị trường chứng khoán của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam

Thảo luận trong 'Kế Toán - Kiểm Toán' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    PHẦN MỞ ĐẦU
    1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu.
    Thị trường chứng khoán Việt Nam sau hơn 5 năm triển khai và đi vào hoạt động, những kết quả đạt được bước đầu là không thể phủ nhận, tuy nhiên hoạt động của thị trường cũng còn nhiều tồn tại và bất cập. Thực tế hiện nay, TTGDCK Tp.Hồ Chí Minh đã bước đầu ổn định, mở ra một kênh huy động vốn trung và dài hạn cho các doanh nghiệp nói riêng và cho nền kinh tế nói chung. Tuy nhiên, thị trường này mới chỉ đáp ứng cho các doanh nghiệp có vốn lớn trên 10 tỷ đồng, và có khả năng đáp ứng những yêu cầu khắt khe để được niêm yết trên Trung tâm, như vậy quy mô của thị trường còn rất nhỏ bé. Trong khi hiện nay các DNV&N ở nước ta chiếm tỷ trọng tương đối lớn, khoảng 88% tổng số doanh nghiệp hiện có, đóng góp khoảng 45% GDP cho nền kinh tế. Nhưng thực tế các doanh nghiệp này đang gặp khó khăn rất lớn về vốn để đầu tư mở rộng và tiếp tục sản xuất.
    TTGDCK Hà Nội cũng đã chính thức đi vào hoạt động, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp DNV&N được tham gia vào thị trường chứng khoán để có thể tiếp cận được nguồn vốn trung và dài hạn. Song quy mô thị trường còn rất nhỏ, hàng hoá ít, chưa thu hút được nhiều các doanh nghiệp, đặc biệt là các DNV&N tham gia thị trường mặc dù các quy định niêm yết đã được nới lỏng hơn rất nhiều so với trên TTGDCK Tp.HCM. Trong khi đó, thị trường tự do lại hoạt động khá sôi động, có quy mô khá lớn song lại tiềm ẩn nhiều yếu tố rủi ro và về lâu dài khó đảm bảo được tính bền vững. Việc tổ chức và phát triển thị trường chứng khoán cho DNV&N là đòi hỏi bức xúc cả về lý luận và thực tiễn. Vì vậy, em đã chọn “Phát triển thị trường chứng khoán của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu.


    2. Mục tiêu nghiên cứu.
    - Hệ thống hoá các vấn đề lý luận cơ bản về việc phát triển TTCK của các DNV&N.
    - Đánh giá thực trạng của TTCK của các DNV&N ở Việt Nam.
    - Đề xuất hệ thống các giải pháp phát triển TTCK của các DNV&N.
    3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
    - Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn thị trường cổ phiếu của các DNV&N ở Việt Nam.
    - Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu phát triển thị trường cổ phiếu của các DNV&N trên TTGDCK Hà Nội.
    4. Phương pháp nghiên cứu.
    Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng và duy vật lịch sử làm căn bản. Đồng thời kết hợp với các phương pháp cụ thể như phân tích, đánh giá
    5. Kết cấu của đề tài.
    Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm 3 chương:
    Chương 1: Những vấn đề cơ bản về TTCK của các DNV&N.
    Chương 2: Thực trạng TTCK của các DNV&N ở Việt Nam hiện nay.
    Chương 3: Giải pháp phát triển TTCK của các DNV&N ở Việt Nam.




    ​ ​ CHƯƠNG 1NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ1.1. Tổng quan về chứng khoán và thị trường chứng khoán.
    1.1.1. Khái quát sự hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán
    TTCK được xem là đặc trưng cơ bản, là biểu tượng của nền kinh tế hiện đại. Với tư cách là một bộ phận cấu thành của thị trường tài chính, TTCK được hiểu một cách chung nhất là nơi diễn ra các giao dịch mua bán chứng khoán-các hàng hoá và dịch vụ tài chính giữa các chủ thể tham gia, theo những quy tắc ấn định trước.
    TTCK ra đời xuất phát từ nhu cầu phát triển tất yếu của nền kinh tế. Một nền kinh tế muốn phát triển, tăng trưởng nhanh và bền vững trước hết phải đáp ứng đủ nhu cầu về vốn đầu tư. Tới một lúc nào đó, nhu cầu vốn này vượt quá khả năng đáp ứng của các kênh huy động truyền thống. Mà trên thực tế, đang tồn tại một lượng vốn rất lớn trong cộng đồng dân cư chưa tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh, gây mất cân đối trong nền kinh tế, đó là những người có cơ hội đầu tư sinh lời thì thiếu vốn, trái lại những người có vốn nhàn rỗi thì lại không có cơ hội đầu tư, dẫn đến vốn bị ứ đọng, gây lãng phí. Xuất phát từ nghịch lý này, TTCK đã ra đời đóng vai trò là kênh dẫn vốn quan trọng, góp phần thúc đẩy quá trình tích tụ, tập trung, phân phối vốn một cách hiệu quả trong nền kinh tế.
    Hình thức sơ khai của TTCK đã xuất hiện cách đây hàng trăm năm vào khoảng thế kỷ 15, ở các thành phố trung tâm thương mại của các nước phương Tây. Cho đến nay, quá trình phát triển của nó đã trải qua nhiều bước thăng trầm. Lịch sử đã đánh dấu hai đợt khủng hoảng lớn, đó là khi các TTCK lớn ở Mĩ, Tây Âu, Nhật Bản bị sụp đổ chỉ trong vài giờ vào “ ngày thứ 5 đen tối”, 29/10/1929 và “ngày thứ 2 đen tối”, 19/10/1987. Song, cùng với yêu cầu phát triển của nền kinh tế, thị trường đã được phục hồi, tiếp tục phát triển và trở thành một thể chế tài chính không thể thiếu của kinh tế thị trường.
    1.1.2. Khái niệm và vai trò của thị trường chứng khoán.
    1.1.2.1. Khái niệm thị trường chứng khoán.
    TTCK được hiểu một cách chung nhất là nơi diễn ra các giao dịch mua bán, trao đổi các chứng khoán. Nghĩa là ở đâu có giao dịch mua bán chứng khoán thì đó là hoạt động của TTCK.
    Chứng khoán được hiểu là các loại giấy tờ có giá hay bút toán ghi sổ, nó có khả năng chuyển nhượng, xác định số vốn đầu tư, cho phép chủ sở hữu có quyền yêu cầu về thu nhập và tài sản của tổ chức phát hành. Các quyền yêu cầu này có sự khác nhau giữa các loại chứng khoán, tuỳ theo tính chất sở hữu của chúng. Có nhiều cách để phân loại chứng khoán dựa theo các tiêu thức khác nhau. Nếu dựa theo tính chất của chứng khoán thì hàng hoá trên thị trường bao gồm hai loại chủ yếu là chứng khoán vốn và chứng khoán nợ.
    Với chứng khoán vốn, mà đại diện là cổ phiếu, nó xác nhận sự góp vốn và quyền sở hữu phần vốn góp đó của cổ đông đối với tài sản của công ty cổ phần. Cổ đông có thể tiến hành mua bán, chuyển nhượng các cổ phiếu trên thị trường thứ cấp theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, cổ đông còn có quyền tham gia quản lý công ty thông qua quyền tham gia và bỏ phiếu tại Đại hội cổ đông, quyền mua trước đối với cổ phiếu phát hành mới.
    Với chứng khoán nợ, điển hình là trái phiếu, là loại chứng khoán quy định nghĩa vụ của tổ chức phát hành phải trả cho chủ sở hữu chứng khoán toàn bộ giá trị cam kết bao gồm cả gốc và lãi sau một thời hạn nhất định.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...