Tiểu Luận Phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp, hiện đại hóa nông thôn

Thảo luận trong 'Quản Trị Kinh Doanh' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Đề tài nghiên cứu
    Phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
    đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
    Một quốc gia muốn phát triển thì cần phải có các nguồn lực của sự phát
    triển linh tế như: tài nguyên thiên nhiên, vốn, khoa học - công nghệ, con người
    Trong các nguồn lực đó thì nguồn lực con người là quan trọng nhất, có tính chất
    quyết định trong sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của mọi quốc gia từ tr ước
    đến nay. Một nước cho dù có tài nguyên thiên nhiên phong phú, máy móc kỹ thuật
    hiện đại nhưng không có những con người có trình độ, có đủ khả năng khai thác
    các nguồn lực đó thì khó có khả năng có thể đạt được sự phát triển như mong
    muốn.
    Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và ngày nay trong công
    cuộc hội nhập và phát triển nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công
    bằng, dân chủ, văn minh”, Đảng ta luôn xác định: Nguồn lao động dồi dào, con
    người Việt Nam có truyền thông yêu nước, cần cù, sáng tạo, có nền tảng văn
    hoá, giáo dục, có khả năng nắm bắt nhanh khoa học và công nghệ là nguồn lực
    quan trọng nhất - nguồn năng lực nội sinh. Vậy nguồn nhân lực là gì?
    1. Khái niệm nguồn nhân lực, phát triển nguồn nhân lực.
    1.1 Khái niệm nguồn nhân lực.
    Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về nguồn nhân lực. Theo Liên
    Hợp Quốc thì “Nguồn nhân lực là tất cả những kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm,
    năng lực và tính sáng tạo của con người có quan hệ tới sự phát triển của mỗi cá
    nhân và của đất nước”.
    Ngân hàng thế giới cho rằng: nguồn nhân lực là toàn bộ vốn con người
    bao gồm thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp của mỗi cá nhân. Như vậy, ở
    đây nguồn lực con người được coi như một nguồn vốn bên cạnh các loại vốn vật
    chất khác: vốn tiền tệ, công nghệ, tài nguyên thiên nhiên.
    Theo tổ chức lao động quốc tế thì: Nguồn nhân lực của một quốc gia là
    toàn bộ những người trong độ tuổi có khả năng tham gia lao động .
    Nguồn nhân lực được hiểu theo hai nghĩa: Theo nghĩa rộng, nguồn nhân
    lực là nguồn cung cấp sức lao động cho sản xuất xã hội, cung cấp nguồn lực con
    người cho sự phát triển. Do đó, nguồn nhân lực bao gồm toàn bộ dân cư có thể
    phát triển bình thường. Theo nghĩa hẹp, nguồn nhân lực là khả năng lao động của
    xã hội, là nguồn lực cho sự phát triển kinh tế xã hội, bao gồm các nhóm dân cư
    trong độ tuổi lao động, có khả năng tham gia vào lao động, sản xuất xã hội, tức là
    toàn bộ các cá nhân cụ thể tham gia vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố
    về thể lực, trí lực của họ được huy động vào quá trình lao động.
    Kinh tế phát triển cho rằng: nguồn nhân lực là một bộ phận dân số trong
    độ tuổi quy định có khả năng tham gia lao động. nguồn nhân lực được biểu hiện
    trên hai mặt: về số lượng đó là tổng số những người trong độ tuổi lao động làm
    việc theo quy định của Nhà nước và thời gian lao động có thể huy động được từ
    họ; về chất lượng, đó là sức khoẻ và trình độ chuyên môn, kiến thức và trình độ
    lành nghề của người lao động. Nguồn lao động là tổng số những người trong độ
    tuổi lao động quy định đang tham gia lao động hoặc đang tích cực tìm kiếm việc
    làm. Nguồn lao động cũng được hiểu trên hai mặt: số lượng và chất lượng. Như
    vậy theo khái niệm này, có một số được tính là nguồn nhân lực nhưng lại không

    phải là nguồn lao động, đó là: Những người không có việc làm nhưng không tích
    cực tìm kiếm việc làm, tức là những người không có nhu cầu tìm việc làm, những
    người trong độ tuổi lao động quy định nhưng đang đi học
    Từ những quan niệm trên, tiếp cận dưới góc độ của Kinh tế Chính trị có
    thể hiểu: nguồn nhân lực là tổng hoà thể lực và trí lực tồn tại trong toàn bộ lực
    lượng lao động xã hội của một quốc gia, trong đó kết tinh truyền thống và kinh
    nghiệm lao động sáng tạo của một dân tộc trong lịch sử được vận dụng đ ể sản
    xuất ra của cải vật chất và tinh thần phục vụ cho nhu cầu hiện tại và tương lai
    của
    đ ất
    nước.
    Trong thời đại ngày nay, con người được coi là một " tài nguyên đ ặc biệt ", một
    nguồn lực của sự phát triển kinh tế. Bởi vậy việc phát triển con người, phát
    triển Nguồn nhân lực trở thành vấn đề chiếm vị trí trung tâm trong hệ thống
    phát triển các nguồn lực. Chăm lo đầy đủ đến con người là yếu tố bảo đảm
    chắc chắn nhất cho sự phồn vinh, thịnh vượng của mọi quốc gia. Đầu tư cho con
    người là đầu tư có tinh chiến lược , là cơ sở chắc chắn nhất cho sự phát triển
    bền vững.
    1.2 Khái niệm phát triển nguồn nhân lực.
    Cho đến nay, do xuất phát từ các cách tiếp cận khác nhau, nên vẫn có
    nhiều cách hiểu khác nhau khi bàn về phát triển nguồn nhân lực. Theo quan niệm
    của Liên hiệp quốc, phát triển nguồn nhân lực bao gồm giáo dục, đào tạo và sử
    dụng tiềm năng con người nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao
    chất lượng cuộc sống. nguồn nhân lực.
    Có quan điểm cho rằng: Phát triển nguồn nhân lực: là gia tăng giá trị cho
    con người, cả giá trị vật chất và tinh thần, cả trí tuệ lẫn tâm hồn cũng như kỹ
    năng nghề nghiệp, làm cho con người trở thành người lao động có những năng
    lực và phẩm chất mới, cao hơn, đáp ứng được những yêu cầu to lớn và ngày
    càng tăng của sự phát triển kinh tế - xã hội.
    Một số tác giả khác lại quan niệm: Phát triển là quá trình nâng cao năng
    lực của con người về mọi mặt: Thể lực, trí lực, tâm lực, đồng thời phân bổ, s ử
    dụng, khai thác và phát huy hiệu quả nhất nguồn nhân lực thông qua hệ thống
    phân công lao động và giải quyết việc làm để phát triển kinh tế- xã hội.
    Từ những luận điểm trình bày trên, phát triển nguồn nhân lực của một
    quốc gia: chính là sự biến đổi về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực trên
    các mặt thể lực, trí lực, kỹ năng, kiến thức và tinh thần cùng với quá trình tạo ra
    những biến đổi tiến bộ về cơ cấu nguồn nhân lực . Nói một cách khái quát nhất,
    phát triển nguồn nhân lực chính là quá trình tạo lập và sử dụng năng lực toàn
    diện con người vì sự tiến bộ kinh tế- xã hội và sự hoàn thiện bản thân mỗi con
    người.
    Như vậy, phát triển nguồn nhân lực với nội hàm trên đây thực chất là đề
    cập đến vấn đề chất lượng nguồn nhân lực và khía cạnh xã hội của nguồn nhân
    lực của một quốc gia.
    1.3 Khái niệm nguồn nhân lực cao.
    Nguồn nhân lực chất lượng cao là khái niệm để chỉ một con người, một
    người lao động cụ thể có trình độ lành nghề ( về chuyên môn, kỹ thuật) ứng với
    một ngành nghề cụ thể theo tiêu thức phân loại lao động về chuyên môn, kỹ
    thuật nhất định (Đại học, trên đại học, cao đẳng, lao động kỹ thuật lành nghề.
    Giữa chất lượng nguồn nhân lực và nguồn nhân lực chất lượng cao có
    mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng. Nói

    đến chất lượng NNL là muốn nói đến tổng thể NNL của một quốc gia, trong đó
    NNL CLC là bộ phận cấu thành đặc biệt quan trọng, là nhóm tinh tuý nhất, có
    chất lượng nhất. Bởi vậy, khi bàn về NNL CLC không thể không đặt nó trong
    tổng thể vấn đề chất lượng nguồn nhân lực nói chung của một đất nước.
    Nguồn nhân lực chất lượng cao là NNL phải đáp ứng được yêu cầu của
    thị trường ( yêu cầu của các doanh nghiệp trong và ngoài nước), đó là: có ki ến
    thức: chuyên môn, kinh tế, tin học; có kỹ năng: kỹ thuật, tìm và tự tạo việc làm,
    làm việc an toàn, làm việc hợp tác; có thái độ, tác phong làm việc tốt, trách nhiệm
    với công việc.
    Như vậy, nguồn nhân lực chất lượng cao phải là những con người phát
    triển cả về trí lực và thể lực, cả về khả năng lao động, về tính tích cực chính trị-
    xã hội, về đạo đức, tình cảm trong sáng. Nguồn nhân lực chất lượng cao có thể
    không cần đông về số lượng, nhưng phải đi vào thực chất.
    Trong thế giới hiện đại, khi chuyển dần sang nền kinh tế chủ yếu dựa
    trên tri thức và trong xu thế toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế, NNL đặc biệt
    là NNL CLC ngày càng thể hiện vai trò quyết định của nó. Các lý thuyết tăng
    trưởng gần đây chỉ ra rằng, một nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh và ở mức
    cao phải dựa trên ít nhất ba trụ cột cơ bản: áp dụng công nghệ mới, phát triển hạ
    tầng cơ sở hiện đại và nâng cao chất lượng NNL. Trong đó động lực quan trọng
    nhất của sự tăng trưởng kinh tế bền vững chính là những con người, đặc biệt là
    NNL CLC, tức là những con người được đầu tư phát triển, có kỹ năng, kiến thức,
    tay nghề, kinh nghiệm, năng lực sáng tạo nhằm trở thành “nguồn vốn - vốn con
    người, vốn nhân lực”. Bởi trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động và cạnh
    tranh quyết liệt, phần thắng sẽ thuộc về những quốc gia có NNL CLC, có môi
    trường pháp lý thuận lợi cho đầu tư, có môi trường chính trị- xã hội ổn định.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...