Báo Cáo Phát triển hợp tác xã và nông hội ở Nhật Bản , Đài Loan và Hàn Quốc

Thảo luận trong 'Chưa Phân Loại' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    I. Nông hội Đài Loan, cầu nối chính phủ và nông dân

    Sự phát triển kinh tế rực rỡ của Đài Loan thời gian qua có sự đóng góp rất lớn của phát triển nông nghiệp. Trong suốt ba thập kỷ từ 50 đến 80, tăng trưởng nông nghiệp của Đài Loan luôn ở mức trên 5%/năm tạo nên tiền đề vững chắc cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hoá. Trong các yếu tố tạo nên thành công của phát triển nông nghiệp phải kể đến vai trò quan trọng của các tổ chức nông dân. Đài loan có 4 tổ chức của nông dân là Nông hội, hợp tác xã cây ăn quả, hội thủy lợi, và hội thủy sản. Về cơ bản đó là những tổ chức kinh tế hợp tác làm dịch vụ phi nông nghiệp bao gồm cung cấp vật tư và tiêu thụ nông sản. Chức năng chính của các tổ chức này là giúp nông dân tăng sức mạnh thương lượng trong hoạt động mua bán. Cả bốn tổ chức đều đăng ký hoạt động và chịu sự quản lý nhà nước của Bộ Nội Vụ. Trong các tổ chức này quan trọng nhất là Nông hội.
    Nông hội của Đài Loan được thành lập năm 1900, tuy nhiên phải đến giữa thập kỷ 50 vai trò của tổ chức này trong phát triển nông nghiệp mới được phát huy. Sau khi thất bại ở Đại Lục năm 1949, một trong những bài học quan trọng nhất Đài Loan học được là tầm quan trọng của giai cấp nông dân. Mặt khác, Đài Loan rất cần đẩy mạnh phát triển nông nghiệp để cung cấp vốn và nguồn lực phục vụ quá trình công nghiệp hoá. Các cố vấn Mỹ thông qua viện trợ tái thiết sau chiến tranh kiên quyết yêu cầu Đài Loan chuyển hậu thuẫn của mình từ tầng lớp địa chủ sang đông đảo nông dân. Với sự trợ giúp tích cực của Cơ quan hợp tác Trung-Mỹ Tái thiết Nông thôn (JCRR), chiến lược này được tiến hành từng bước từ giảm tô, cải cách ruộng đất, và sau đó là xây dựng các tổ chức hợp tác của nông dân để cung cấp dịch vụ cho nông dân đã trở thành nông hộ nhỏ. Nông hội được xây dựng để làm cầu nối giữa chính phủ và nông dân, gắn nông dân với Chính phủ. Một mặt, giúp chính phủ thực thi chiến lược phát triển nông nghiệp một cách hiệu quả cũng như là phản ánh những nhu cầu phát triển của nông dân với chính phủ và bảo vệ quyền lợi của họ. Đây là điểm khác biệt giữa Nông hội và các tổ chức hợp tác khác, thuần túy phục vụ mục đích kinh tế cho nông dân.
    Trong hoàn cảnh như vậy, chính phủ Đài Loan chọn Nông hội làm cánh tay đắc lực để thực hiện chiến lược phát triển nông nghiệp, hướng vào mục tiêu đảm bảo an toàn lương thực và đẩy mạnh xuất khẩu nông sản. Từ đó đến nay, trải qua nhiều lần cải cách và phát triển Nông hội vẫn đóng 2 vai trò chính:

    ã Là tổ chức của nông dân, nhằm bảo vệ quyền lợi và là đại biểu của nhân dân. Thực hiện các dịch vụ phục vụ nông hộ như: khuyến nông, tín dụng, bảo hiểm, thông tin, tiếp thị và tiêu thụ nông sản.

    ã Là tổ chức được chính phủ ủy thác giải quyết các vấn đề nhằm phục vụ các mục tiêu của Chính phủ về phát triển nông nghiệp nông thôn. Tiếp nhận vốn đầu tư và tín dụng ưu đãi của nhà nước, thực hiện các chương trình phát triển kinh tế xã hội nông thôn.

    Nông hội đóng vai trò chính làm cầu nối giữa chính phủ và nông dân, là tổ chức kinh tế-xã hội- chính trị đặc biệt để tổ chức và giúp đỡ các trang trại hộ nông dân qui mô nhỏ trong quá trình sản xuất hàng hóa lớn. Do có tầm quan trọng đặc biệt, Nhà nước tập trung hỗ trợ nhiều mặt cho Nông hội. Trước hết là sự hỗ trợ to lớn về tài chính: 50% vốn của Nông hội do chính phủ cung cấp, chưa kể các đầu tư trực tiếp khác cho nông thôn như xây dựng cơ sở hạ tầng, chuyển giao giống mới, tiến bộ kỹ thuật qua các chương trình phát triển.

    Cơ cấu tổ chức

    Tổ chức của Nông hội phân theo cấp hành chính, thấp nhất là cấp thôn (4517 đơn vị), cấp xã( 267 đơn vị), cấp huyện (21 đơn vị) và cấp Trung ương. Là tổ chức của nông dân, việc phân theo thứ bực hành chính chỉ để thể hiện qui mô hoạt động, Nông Hội không có tổ chức cấp trên, cấp dưới. Mọi cấp đều bình đẳng và dân chủ trong việc ra quyết định. Trung bình, mỗi xã có 18 hợp tác xã nhỏ cấp thôn, mỗi hợp tác xã nhỏ có khoảng 195 xã viên. Mỗi hộ chỉ có một người được phép trở thành xã viên. Các xã viên có tối thiểu 0,2 ha đất trở lên được coi là hội viên chính thức, hội viên không phải là nông dân (không có đất) cũng được tham gia và hưởng mọi quyền lợi nhưng không được biểu quyết.


    Nông hội cấp xã là hệ thống chính kết nối nông dân cả nước, còn Nông hội cấp huyện và thành phố đóng vai trò giám sát, đào tạo, kiểm toán, điều phối, và giúp đỡ địa phương. Nông hội cấp huyện cử đại biểu tham gia Nông hội cấp Trung ương, cấp xã cử đại biểu tham gia Nông Hội cấp huyện.
    Tại cơ sở, nông dân tổ chức theo tổ (có cùng mối quan tâm hoặc cùng sản xuất một mặt hàng .). Các tổ cử đại biểu tham dự đại hội Đại biểu của Nông Hội. Đại hội đại biểu là cơ quan quyền lực cao nhất của hệ thống Nông hội được hình thành do các đại biểu của cấp dưới bầu lên. Đại hội sẽ bầu ra Hội đồng Quản trị gồm 9 người và Ban Kiểm soát gồm 3 người. Hội đồng quản trị và Ban Kiểm soát sẽ thông qua thi tuyển về năng lực và trình độ để lựa chọn và thuê giám đốc điều hành chuyên môn (ít nhất phải có trình độ đại học). Sau khi được tuyển, giám đốc sẽ chịu trách nhiệm điều hành hoạt động hoạt động sản xuất kinh doanh của Nông hội.
    Hình: sơ đồ tổ chức của Nông hội Đài Loan
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...