Tiến Sĩ Phát triển dịch vụ thẩm định giá ở Việt Nam

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 30/11/13.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Luận án tiến sĩ
    Đề tài: Phát triển dịch vụ thẩm định giá ở Việt Nam
    Định dạng file word

    KẾT CẤU CỦA LUẬN ÁN
    Luận án bao gồm lời mở đầu, kết luận và 3 chương.
    Lời mở đầu luận án giới thiệu tổng quan về đề tài nghiên cứu
    Chương 1: Cơ sở khoa học về phát triển DVTĐG trong nền kinh tế quốc
    dân. Giới thiệu về DVTĐG và cơ sở khoa học phát triển DVTĐG và nghiên cứu
    kinh nghiệm DVTĐG ở một số quốc gia.
    Chương 2: Thực trạng phát triển DVTĐG ở Việt Nam thời gian qua. Giới
    thiệu tình hình phát triển DVTĐG thời gian qua và phân tích các nhân tố tác động
    đến phát triển DVTĐG và đánh giá chung về hoạt động DVTĐG ở VN.
    Chương 3: Giải pháp phát triển DVTĐG ở Việt Nam. Trình bày quan điểm
    và giải pháp phát triển DVTĐG, các kiến nghị, cũng như các hạn chế của nghiên
    cứu này để định hướng cho nghiên cứu tiếp theo.

    MỞ ĐẦU

    1. ĐẶT VẤN ĐỀ.
    Dịch vụ thẩm định giá (DVTĐG) là một dịch vụ tồn tại khách quan trong đời
    sống kinh tế xã hội của tất cả các nước có nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị
    trường. DVTĐG có vai trò quan trọng trong tất cả các loại quyết định của các tổ
    chức và các cá nhân có liên quan đến việc quản lý, sở hữu, mua bán, tính thuế, bảo
    hiểm, cho thuê, cầm cố và kinh doanh tài sản, Chính vì thế mà DVTĐG trên thế
    giới đã phát triển và được chấp nhận là một nghề nghiệp cần thiết bắt đầu từ thập kỷ
    40 của thế kỷ 20 trở lại đây [9, tr 4].
    Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã diễn ra sâu rộng, nhu cầu về liên
    doanh, liên kết kinh tế với các doanh nghiệp nước ngoài; vay nợ của chính phủ và
    vay nợ nước ngoài cần có sự bảo lãnh của chính phủ cho các dự án ngày một gia
    tăng, từ đó xuất hiện yêu cầu ngày càng nhiều, đa dạng trên nhiều lĩnh vực của nền
    kinh tế nước ta như: xác định giá trị tài sản mua sắm từ nguồn vốn Nhà nước; xác
    định giá trị tài sản để góp vốn, cổ phần hóa doanh nghiệp, thế chấp, mua bán,
    chuyển nhượng tài sản, tài sản trong việc thi hành án . của các bên có liên quan. Vì
    vậy, việc xác định đúng đắn giá trị của các nguồn lực, từng loại hình tài sản thuộc
    nguồn lực này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc quản lý, sử dụng tài sản mang lại
    hiệu quả kinh tế cao nhất cho nền kinh tế nước ta trong thời kỳ hiện nay.
    Xuất phát từ yêu cầu khách quan phải xác định đúng đắn giá trị tài sản phục
    vụ cho yêu cầu quản lý, sử dụng tài sản của các đối tượng (Nhà nước, người mua,
    người bán, các nhà đầu tư, ) phục vụ cho các mục đích sử dụng tài sản như đã nói
    ở trên; Nhà nước phải hình thành các tổ chức trung gian tài chính có đủ điều kiện để
    cung cấp DVTĐG. Theo quy định của pháp luật để xác định đúng đắn giá trị thị
    trường của tài sản phục vụ cho việc trao đổi, giao dịch về tài sản, hàng hóa trên thị
    trường là hết sức cần thiết góp phần tạo nên môi trường kinh doanh minh bạch, lành
    mạnh, ngăn ngừa các hành vi tham nhũng, lãng phí qua giá; xuất phát từ các yêu
    cầu khách quan về quản lý kinh tế thị trường, yêu cầu đòi hỏi của xã hội như trên
    mà DVTĐG cần được phát triển trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà
    nước.
    Ở Việt Nam, sau khi xóa bỏ chế độ kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp
    sang hoạt động theo cơ chế thị trường, Nhà nước đã bỏ cơ chế hành chính do Nhà
    nước định đoạt giá chuyển sang cơ chế giá thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
    Khi nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển, các nguồn lực vốn, vật tư, lao động,
    và đặc biệt là đất đai đã trở thành hàng hóa và tham gia vào quá trình công nghiệp
    hóa, hiện đại hóa đất nước, thì nhu cầu TĐG tài sản của nền kinh tế đã xuất hiện
    nhanh chóng và được xã hội thừa nhận. Tuy mới bước đầu hoạt động từ năm 1993 –
    1994 nhưng Việt Nam đã được công nhận là thành viên chính thức của Hiêp hội
    TĐG Asean (1997); từ ngày 01/06/1998 tham gia Ủy ban tiêu chuẩn TĐG quốc tế
    với tư cách là Hội viên thông tấn và đến tháng 11/2009 đã trở thành thành viên
    chính thức cửa Hội đồng tiêu chuẩn TĐG quốc tế ­ IVSC. Đến nay, pháp luật Việt
    Nam đã cho phép hơn 60 doanh nghiệp hoạt động DVTĐG và công nhận hơn 280
    thẩm định viên về giá đủ điều kiện hành nghề TĐG trên toàn quốc.
    Trong khi đó DVTĐG tại các nước trong khu vực Asean và trên thế giới đã
    phát triển mạnh. DVTĐG ở mức độ cao, sâu rộng và lâu đời như tại Mỹ (ngành
    TĐG đã có gần 80 năm), tại New zealand hơn 100 năm, tại Canada, và Malaysia
    hơn 60 năm, tại Thái Lan hơn 40 năm, đến nay Việt Nam mới chỉ hơn 10 năm.
    Thực tế cho thấy hoạt động TĐG tại nước ta vẫn còn mang tính “mới mẻ” và vẫn
    chưa đáp ứng được các nhu cầu đòi hỏi của nền kinh tế; khung pháp lý chưa đồng
    bộ, chồng chéo; hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu về TĐG chưa được xây dựng
    chuẩn mực, còn nghèo nàn, manh mún, thiếu tính thống nhất; So với lộ trình hội
    nhập WTO, đến năm 2012 chúng ta cần có 1.000 thẩm định viên về giá; . Từ đó
    cho thấy rằng DVTĐG Việt Nam cần một chiến lược phát triển nhằm phát huy tối
    đa vai trò hỗ trợ phát triển nền kinh tế quốc dân. Do vậy, rất cần một công trình
    khoa học mang tính hệ thống để định hướng phát triển DVTĐG tại VN. Xuất phát
    từ nhu cầu thực tế trên, Nghiên cứu sinh (NCS) quyết định chọn đề tài “Phát triển
    dịch vụ thẩm định giá ở Việt Nam” để làm luận án nghiên cứu.
    2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
    Nghiên cứu phát triển DVTĐG Việt Nam nhằm mục tiêu:
    Thứ nhất, luận án tiến hành phân tích thực trạng phát triển DVTĐG ở Việt
    Nam từ lúc hình thành cho đến nay, với hai nội dung là nhu cầu về DVTĐG
    và cung ứng DVTĐG. Luận án phân tích các nhân tố ảnh hưởng phát triển
    DVTĐG tại Việt Nam.
    Thứ hai, luận án xây dựng và kiểm định thang đo tác động đến sự phát triển
    DVTĐG. Xây dựng và kiểm định mô hình các nhân tố tác động đến sự phát
    triển DVTĐG ở VN.
    Thứ ba, luận án đề xuất các quan điểm, giải pháp và kiến nghị để phát triển
    DVTĐG ở Việt Nam đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế đất nước.
    3. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
    Có nhiều công trình nghiên cứu về TĐG. Nghiên cứu sinh xin nêu một số
    công trình tiêu biểu:
    Luận án tiến sĩ “Định giá bất động sản thế chấp trong các ngân hàng thương
    mại Việt nam hiện nay” (2011), của tác giả Ngô Thị Phương Thảo, nghiên cứu
    cơ sở lý luận về vấn đề thẩm định giá bất động sản thế chấp trong hoạt động
    cho vay của các Ngân hàng thương mại. Phân tích đánh giá thực trạng định giá
    bất động sản thế chấp trong hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại
    Việt Nam. Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động định giá BĐS thế
    chấp trong hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại. Nhìn chung, đề
    tài mang tính chuyên sâu về nghiệp vụ thẩm định giá, mới chỉ dừng lại ở
    phương pháp và quy trình tổ chức thẩm định giá BĐS thế chấp, chứ chưa nhắc
    đến thẩm định giá như một loại hình dịch vụ.
    Đề án “Nâng cao năng lực và phát triển nghề thẩm định giá giai đoạn 2008 –
    2020” của Bộ Tài chính. Nghiên cứu này thông qua việc nêu lên sự cần thiết
    của nghề thẩm định giá, đánh giá thực trạng hoạt động thẩm định giá ở VN, từ
    đó đề ra mục tiêu và giải pháp nâng cao năng lực và phát triển nghề thẩm định
    giá ở VN. Nghiên cứu trình bày khá cơ bản những vấn đề cần thiết cho sự phát
    triển của hoạt động thẩm định giá, tuy nghiên nghiên cứu chưa đề cập đến sự
    phát triển thẩm định giá như là một dịch vụ. Dựa trên nghiên cứu này, luận án
    rút ra những bài học kinh nghiệm trong quá trình phát triển DVTĐG tài VN.
    Bài báo Phân tích cạnh tranh trong dịch vụ thẩm định giá (A Competitive
    Analysis of Business Valuation Services) của Michael A. Crain [53] . Nội dung
    chính là xác định được những “lực lượng” ảnh hưởng đến sự phát triển dịch vụ

    7. TÍNH MƠ`I VÀ ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN
    7.1. Về mặt lý luận
    Thứ nhất, luận án hệ thống hóa những lý luận cơ bản về TĐG, DVTĐG. Kết
    hợp giữa lý thuyết cung – cầu trong kinh tế học, lý thuyết cạnh tranh kết hợp với mô
    hình nghiên cứu các nhân tố tác động đến phía cung và phía cầu của DVTĐG để
    phân tích, đánh giá thực trạng của thị trường DVTĐG tại Việt Nam.
    Thứ hai, luận án đúc kết những kinh nghiệm về phát triển DVTĐG trên thế
    giới, là cơ sở vận dụng để phát triển DVTĐG ở Việt Nam.
    7.2. Về mặt thực tiễn
    Thứ nhất, luận án đã phác họa bức tranh khá toàn diện về quá trình hình
    thành, phát triển DVTĐG tại Việt Nam và thực trạng phát triển DVTĐG tại Việt
    Nam từ phía cung và cả phía cầu và xác định mô hình các nhân tố ảnh hưởng đến
    phát triển DVTĐG tại Việt Nam.
    Thứ hai, luận án đề xuất các quan điểm phát triển, nhóm giải pháp và kiến
    nghị cho phát triển của DVTĐG tại Việt Nam.

    CHƯƠNG 1: CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ PHÁT TRIỂN DVTĐG TRONG NỀN
    KINH TẾ QUỐC DÂN

    1.1. KHÁI NIỆM VỀ TĐG VÀ DVTĐG
    1.1.1. Khái niệm dịch vụ
    Dịch vụ là một lĩnh vực rất phong phú, đa dạng và phát triển không ngừng
    theo sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Xu hướng phát triển kinh tế thế
    giới thì ngành dịch vụ chiếm tỷ trọng cao trong tổng sản phẩm quốc nội so với
    ngành công nghiệp và nông nghiệp, và đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế.
    Dịch vụ được xem là ngành góp phần đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế của quốc gia.
    Dịch vụ là một yếu tố không thể tách rời quá trình sản xuất hàng hóa, làm tăng giá
    trị và tăng khả năng cạnh tranh của hàng hóa. Ở các nước phát triển, tỷ trọng dịch
    vụ trong tổng sản phẩm quốc dân thường rất cao (chẳng hạn, ở Mỹ ngành dịch vụ
    chiếm 70% GDP).
    Vào những năm cuối thế kỷ XX dịch vụ đã trở thành một ngành kinh tế quan
    trọng của các quốc gia và trở thành đối tượng nghiên cứu của các nhà khoa học. Có
    nhiều quan niệm khác về dịch vụ. Theo cách chung nhất có hai cách hiểu như sau:
    Theo nghĩa rộng, dịch vụ được coi là lãnh vực kinh tế thứ ba trong nền kinh
    tế quốc dân. Có nghĩa là các hoạt động kinh tế nằm ngoài hai ngành công
    nghiệp và nông nghiệp đều thuộc ngành dịch vụ.
    Theo nghĩa hẹp, dịch vụ là những hoạt động tiếp tục, hỗ trợ, khuếch trương
    cho quá trình kinh doanh, bao gồm các hoạt động trước, trong và sau khi bán,
    là phần mềm của sản phẩm được cung ứng cho khách hàng [14, tr 312].
    Theo từ điển Oxford định nghĩa dịch vụ là ngành cung cấp những sản phẩm vô
    hình. Dịch vụ là một loại hàng hóa có đặc điểm riêng khác với hàng hóa thông
    thường. Theo tài liệu của dự án MUTRAP – Dự án hỗ trợ thương mại đa biên
    (2006), dịch vụ là một loại hình hoạt động kinh tế, tuy không đem lại một sản
    phẩm cụ thể như hàng hóa, nhưng vì là một loại hình kinh tế nên cũng có
    người bán (người cung cấp dịch vụ) và người mua (khách hàng sử dụng dịch
    vụ) [23, tr2].
    Như vậy, có thể định nghĩa dịch vụ như sau: Dịch vụ là sản phẩm của lao
    động, không tồn tại dưới dạng vật thể, quá trình sản xuất và tiêu thụ xảy ra đồng
    thời, nhằm đáp ứng nhu cầu của sản xuất, tiêu dùng.
    1.1.2. Phân loại các loại hình dịch vụ
    Dịch vụ là những hoạt động nhằm thỏa mãn nhu cầu phi vật chất của con
    người. Xã hội ngày càng phát triển thì các loại hình dịch vụ càng phát triển phong
    phú và đa dạng. Có thể phân loại dịch vụ theo những tiêu thức chủ yếu sau đây:
    Theo nguồn gốc xuất xứ của dịch vụ, người ta có thể chia dịch vụ thành hai loại:
    dịch vụ có nguồn gốc từ con người và dịch vụ có nguồn gốc từ máy móc.
    + Dịch vụ có nguồn gốc từ con người là những dịch vụ do con người thực
    hiện. Đó là các dịch vụ cần đến nguồn nhân lực chuyên nghiệp được đào
    tạo bài bản như: bác sĩ, luật sư, chuyên gia thẩm mỹ, kinh doanh chứng
    khoán, kiểm toán, DVTĐG,
    + Dịch vụ có nguồn gốc từ máy móc, thiết bị bao gồm cả 2 loại là dịch vụ do
    máy móc tự động như: máy rút tiền ATM, máy bán hàng tự động, hoặc
    máy móc thiết bị cần đến sự điều khiển của con người như: dịch vụ vận
    tải, y tế,
    Phân loại theo mục đích của người cung ứng dịch vụ, ta có thể chia thành hai
    loại dịch vụ kinh doanh và dịch vụ phi kinh doanh.
    + Dịch vụ kinh doanh là những loại hình dịch vụ mà người cung cấp là các chủ
    thể kinh doanh như: dịch vụ du lịch, dịch vụ vận tải, dịch vụ tài chính,
    + Dịch vụ phi kinh doanh: là những loại hình dịch vụ không nhằm mục tiêu
    lợi nhuận như: dịch vụ y tế cộng đồng, dịch vụ hành chính công,
    Phân loại theo lĩnh vực ngành nghề hoạt động, căn cứ vào lĩnh vực ngành nghề
    hoạt động tổ chức thương mại thế giới – WTO đã phân chia thành 12 phân
    ngành dịch vụ gồm:
    + Dịch vụ kinh doanh
    + Dịch vụ liên lạc
    + Dịch vụ xây dựng thi công
    + Dịch vụ phân phối: đại lý hoa hồng, bán lẻ, bán buôn và đại lý mượn danh.
    + Dịch vụ giáo dục.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...