Thạc Sĩ Phát triển công nghiệp hỗ trợ của Nhật Bản và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 24/6/14.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Luận văn thạc sỹ kinh tế: Phát triển công nghiệp hỗ trợ của Nhật Bản và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam
    1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG --------------- NGUYỄN THU THỦY PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ CỦA NHẬT BẢN VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. PHẠM THU HƯƠNG Hà Nội, 2010
    2. 1 MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN MỤC LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT DANH MỤC CÁC BẢNG VÀ HÌNH VẼ LỜI MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ 6 1.1 Khái niệm về Công nghiệp hỗ trợ 6 1.1.1. Khái niệm . 6 1.1.2. Đặc điểm của ngành Công nghiệp hỗ trợ 9 1.1.3 Các hình thức công nghiệp hỗ trợ hiện nay và các cấp hỗ trợ . 12 1.1.4 Các phương thức sản xuất trong công nghiệp hỗ trợ . 13 1.2. Vai trò và các nhân tố ảnh hưởng tới công nghiệp hỗ trợ . 15 1.2.1. Vai trò của công nghiệp hỗ trợ . 15 1.2.2. Những nhân tố ảnh hưởng tới sự phát triển của công nghiệp hỗ trợ . 18 CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG NGÀNH CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ CỦA NHẬT BẢN 23 2.1. Tổng quan về công nghiệp hỗ trợ của Nhật Bản: 23 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của công nghiệp hỗ trợ của Nhật Bản: . 23 2.1.2 Đặc điểm chính của ngành công nghiệp hỗ trợ của Nhật Bản 28 2.2. Công nghiệp hỗ trợ của Nhật Bản trong một số nghành công nghiệp chính . 40 2.2.1 Công nghiệp hỗ trợ ô tô . 41 2.2.2 Công nghiệp hỗ trợ ngành điện tử: 49 2.2.3 Công nghiệp hỗ trợ dệt may 55 2.3. Đánh giá về công nghiệp hỗ trợ của Nhật Bản . 60 2.3.1. Ưu điểm 60 2.3.2. Nhược điểm 61
    3. 2 CHƯƠNG III: PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ VIỆT NAM TỪ KINH NGHIỆM CỦA NHẬT BẢN 63 3.1 Từ góc độ chính phủ 66 3.1.1 Tạo chính sách pháp luật ổn định khuyến khích phát triển công nghiệp hỗ trợ 66 3.1.2 Đẩy nhanh quá trình sắp xếp, tổ chức lại các doanh nghiệp nhà nước, khuyến khích phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ 68 3.1.3 Nâng cao tầm quan trọng của doanh nghiệp FDI trong việc phát triển CNHT . 70 3.1.4 Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu công nghiệp hỗ trợ, tăng cường sự kết nối giữa doanh nghiệp và nhà cung cấp . 71 3.1.5 Phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ công nghiệp hỗ trợ . 72 3.1.6 Phát triển nguồn nhân lực . 73 3.1.7 Tăng cường hợp tác, liên kết quốc tế trong phát triển CNHT . 75 3.2 Từ góc độ các ngành công nghiệp 75 3.2.1 Phối hợp tốt với chính phủ để thiết lập và hoạch định chính sách công nghiệp hợp lý 76 3.2.2 Góp phần tạo lập cơ sở dữ liệu về công nghiệp hỗ trợ tại địa phương . 76 3.2.3 Đầu tư cho công nghiệp hỗ trợ tại địa phương 76 3.2.4 Tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại . 77 3.3 Từ phía các doanh nghiệp 78 3.3.1 Tăng cường đầu tư vào đổi mới sản phẩm và công nghệ sản xuất, quy chuẩn hóa qui trình sản xuất đảm bảo chất lượng sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế 78 3.3.2 Cần có cơ chế quản lý sản xuất đồng bộ trong quản lý sản xuất 79 3.3.3 Tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại . 79 3.3.4 Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực 80 KẾT LUẬN 82 TÀI LIỆU THAM KHẢO . 83 PHỤ LỤC
    4. 3 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT  CNHT: Công nghiệp hỗ trợ  AFTA – ASEAN Free Trade Area - Khu vực tự do thương mại Đông Nam Á  FDI- Foreign Direct Investment - Đầu tư trực tiếp nước ngoài  JAMA – Japan Automobile Manufacturer Association – Hiệp hội các nhà sản xuất ô tô Nhật Bản  MNC – Multi-national corporation - Công ty đa quốc gia  MITI – Ministry of Industry and International Trade - Bộ Công nghiệp và Thương mại quốc tế Nhật Bản  SME: Small and Medium Enterprise – Doanh nghiệp vừa và nhỏ  VDF – Vietnam Development Forum - Diễn đàn phát triển Việt Nam  WTO – World Trade Organization - Tổ chức thương mại thế giới
    5. 4 LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hiện nay, phát triển công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam là một đề tài đang có tính thời sự vì tầm quan trọng của nó đối với việc phát triển các ngành công nghiệp. Công nghiệp hỗ trợ có vai trò quan trọng trong việc giảm giá thành sản xuất từ đó nâng cao giá trị sản phẩm, lợi nhuận của doanh nghiệp, làm tăng sức cạnh tranh của nền công nghiệp trong bối cảnh cạnh tranh quốc tế ngày một gay gắt.“ Tôi rất ngạc nhiên khi được biết Việt Nam chỉ cung cấp được thùng các tông và tôi đã bị sốc khi nghe nói rằng các doanh nghiệp sản xuất rượu của Nhật Bản còn phải nhập khẩu đến cả chai rượu”. Lời phát biểu của đại sứ Nhật Bản tại Việt Nam năm 2008 trong cuộc họp được tổ chức giữa các nhà đầu tư và Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đã khiến không ít người phải giật mình về thực trạng yếu kém của công nghiệp hỗ trợ - một trong những ngành công nghiệp xương sống và rất quan trọng đối với nền kinh tế các nước nhưng lại không giành được sự quan tâm đầy đủ và thích đáng ở Việt Nam. 2. Tình hình nghiên cứu Chính từ thực tế đó, hiện nay công nghiệp hỗ trợ là một chủ đề nóng, được nhắc đến và bàn thảo rất nhiều trong thời gian gần đây, có rất nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến kinh nghiệm phát triển công nghiệp hỗ trợ các nước trên thế giới và nghiên cứu sự phát triển công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam . Năm 2007, Diễn đàn Phát triển Việt Nam (VDF) trong dự án Hợp tác nghiên cứu Neu – Grips đã xuất bản một cuốn sách có tựa đề “Xây dựng công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam” chỉ rõ những tồn tại cần khắc phục trong công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam, cũng trên tinh thần đó tháng 10.2009 trường Đại học Ngoại thương Hà Nội đã kết hợp với Trung tâm hợp tác phát triển nguồn nhân lực Nhật Bản (VJCC) tổ chức một cuộc hội thảo mang tên “ Phát triển công nghiệp hỗ trợ: Kinh nghiệm của Nhật Bản và một số nước Châu Á” đưa ra các ví dụ thành công trong mô hình phát triển công nghiệp hỗ trợ tại Nhật Bản và các nước láng giềng Châu Á, từ đó chỉ ra những định hướng và giải pháp để phát triển công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam.
    6. 5 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Nhằm làm rõ hơn tầm quan trọng và vai trò của công nghiệp hỗ trợ với nền kinh tế Việt Nam, tôi đã chọn đề tài “ Phát triển công nghiệp hỗ trợ của Nhật Bản và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ của mình. Đối tượng nghiên cứu: công nghiệp hỗ trợ của Nhật Bản, công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam và một số giải pháp phát triển công nghiệp hỗ trợ Việt Nam Phạm vi nghiên cứu: Luận văn chỉ nghiên cứu ba ngành công nghiệp hỗ trợ chính: công nghiệp hỗ trợ ô tô, công nghiệp hỗ trợ ngành điện tử, công nghiệp hỗ trợ dệt may từ cuối những năm 1990 đến nay 4. Kết cấu của luận văn Luận văn này ngoài các phần như mục lục, lời mở đầu, tài liệu tham khảo và phụ lục gồm có ba phần chính với nội dung như sau Chương I : Tổng quan về công nghiệp hỗ trợ Chương II : Thực trạng ngành công nghiệp hỗ trợ của Nhật Bản Chương III : Phát triển công nghiệp hỗ trợ Việt Nam từ kinh nghiệm của Nhật Bản
    7. 6 CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ 1.1 Khái niệm về Công nghiệp hỗ trợ 1.1.1. Khái niệm Thuật ngữ CNHT xuất hiện từ khi xã hội có sự phân công lao động ở trình độ cao, khi mà các công đoạn sản xuất được chuyên môn hóa, mỗi bộ phận chi tiết được thực hiện trong các doanh nghiệp khác nhau và cung cấp cho một doanh nghiệp gia công lắp ráp để tạo ra sản phẩm cuối cùng. Và mặc dù thuật ngữ này đã được sử dụng rộng rãi ở nhiều nước, nhưng nó vẫn không được rõ ràng và đồng nhất về mặt định nghĩa. Trên thực tế, khái niệm CNHT được hiểu và tiếp cận tùy thuộc vào tình hình kinh tế xã hội của một quốc gia và các mục tiêu chiến lược công nghiệp của quốc gia đó, và các quốc gia khác nhau có cách định nghĩa không giống nhau. Trong các văn bản cấp quốc gia hiện tại, có ba cách thể hiện chính thức định nghĩa về công nghiệp hỗ trợ như sau: Theo cách tiếp cận tổng quát, Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản (Ministry of Economy, Trade and Industry - METI) chính thức định nghĩa về CNHT trong chương trình hành động phát triển CNHT Châu Á vào năm 1993 như sau: “CNHT là các ngành công nghiệp cung cấp các yếu tố cần thiết như nguyên vật liệu thô, linh kiện và vốn, vvv . cho các ngành công nghiệp lắp ráp (bao gồm ô tô, điện và điện tử)”[20]. Cũng đồng quan điểm như vậy, Phòng Năng lượng Hoa Kỳ trong ấn phẩm năm 2004 với tên gọi “Các ngành công nghiệp phụ trợ: Công nghiệp của tương lai”, đã định nghĩa công nghiệp hỗ trợ là những ngành sử dụng nguyên vật liệu và các quy trình cần thiết để định hình và chế tạo ra sản phẩm trước khi chúng được lưu thông đến ngành công nghiệp sử dụng cuối cùng (end-use indutries). Tuy khái niệm của Phòng Năng lượng Hoa Kỳ đưa ra rất tổng quát nhưng cơ quan này, trong phạm vi chức năng của mình, tập trung chủ yếu vào mục tiêu tiết kiệm năng lượng. Do đó, công nghiệp hỗ trợ theo quan điểm của cơ quan này là những ngành tiêu tốn nhiều năng lượng như than, luyện kim, thiết bị nhiệt, hàn, đúc Tuy nhiên, theo cách tiếp cận cụ thể, văn phòng phát triển CNHT Thái Lan (Bureau of Supporting Industries Development - BSID) đưa ra định nghĩa về CNHT
    8. 7 như sau: “CNHT là các ngành công nghiệp cung cấp linh kiện, phụ kiện, máy móc, dịch vụ đóng gói và dịch vụ kiểm tra cho các ngành công nghiệp cơ bản (theo đó các ngành cơ khí, máy móc, linh kiện cho ô tô, điện & điện tử là những ngành CNHT quan trọng)”. [20] Còn theo cách liệt kê, Hội đồng Đầu tư Thái Lan phân loại các ngành công nghiệp sản xuất thành phẩm thành 3 bậc: lắp ráp, sản xuất linh kiện và phụ kiện, và các ngành CNHT. Năm sản phẩm chính của ngành CNHT là gia công khuôn mẫu, gia công áp lực, đúc, cán và các gia công nhiệt. Các định nghĩa trên chủ yếu nhìn công nghiệp hỗ trợ theo góc độ ngành, nếu tiếp cận theo chuỗi giá trị, từ góc độ doanh nghiệp, CNHT có thể hiểu gồm ba dạng doanh nghiệp: - Các nhà cung ứng linh kiện, thiết bị, máy móc ở nước ngoài (import). - Các nhà cung ứng linh kiện, thiết bị, máy móc nước ngoài ở thị trường trong nước (foreign suppliers). - Các nhà cung ứng linh kiện, thiết bị, máy móc ở nội địa (dosmetic suppliers). Ở Việt Nam, thuật ngữ “công nghiệp hỗ trợ” là một thuật ngữ khá mới mẻ. Một giai đoạn dài cho đến trước đổi mới, nền kinh tế nước ta vừa còn mang đậm dấu ấn của nền kinh tế tự cung tự cấp, vừa bị ảnh hưởng của nhận thức mang tính giáo điều về tính độc lập tự chủ, cái gì cũng tự làm lấy, từ đầu đến cuối, thậm chí ở riêng từng xí nghiệp, nên ở Việt Nam chưa thực sự hình thành CNHT. Tiếp đến là giai đoạn đón nhận một cách thiếu chọn lọc đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), dẫn đến sự xuất hiện của hàng loạt cơ sở gia công, lắp ráp với nguyên phụ liệu và linh kiện, phụ tùng hầu hết là nhập khẩu. Mãi đến năm 2003, thuật ngữ “công nghiệp hỗ trợ” được nhắc đến lần đầu tại Việt Nam trong Sáng kiến chung Việt Nam – Nhật Bản. Đây là một văn kiện quan trọng đã được thủ tướng Phan Văn Khải và thủ tướng Koizumi thống nhất quyết định đưa vào thực hiện. Bản kế hoạch hành động triển khai sáng kiến chung bao gồm 44 hạng mục lớn, trong đó hạng mục đầu tiên là nhằm phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam. Năm 2006, Diễn đàn phát triển Việt Nam đã đưa ra định nghĩa về CNHT như sau: “CNHT là một nhóm các hoạt động công nghiệp cung cấp các đầu vào trung
    9. 8 gian (gồm linh kiện, phụ tùng, và công cụ để chế tạo ra phụ tùng, linh kiện này) cho các ngành công nghiệp lắp ráp và chế biến”[10]. Tuy vậy, cho tới nay, vẫn chưa có một khái niệm cụ thể nào trong các văn bản pháp quy cho ngành CNHT ở Việt Nam và ngành này được hiểu như một ngành công nghiệp phụ giúp cho việc lắp ráp các sản phẩm cuối cùng, thông qua việc cung cấp các bộ phận, chi tiết hoặc các sản phẩm hàng hóa trung gian khác. Như vậy, dù có những cách định nghĩa khác nhau nhưng nói chung khái niệm “công nghiệp hỗ trợ” là dùng để chỉ ngành công nghiệp chuyên sản xuất ra các sản phẩm phụ trợ cho việc sản xuất của các ngành công nghiệp chính, và các doanh nghiệp chuyên sản xuất các linh phụ kiện này được hiểu là doanh nghiệp CNHT. Trong khuôn khổ của luận văn này, ta hiểu CNHT theo định nghĩa do Diễn đàn phát triển Việt Nam đưa ra năm 2006 từ đó xem CNHT là hoạt động công nghiệp cung cấp các đầu vào trung gian cho các ngành công nghiệp lắp ráp và chế biến. NHÀ LẮP RÁP NGÀNH CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ LINH PHỤ KIỆN CAO SU NHỰA ĐIỆN ỐC VÍT LÒ XO ÉP CÁN ĐÚC DẬP MÁY MÓC CÁN THÉP XỬ LÝ NHIỆT VẬT LIỆU ÉP NGUYÊN LIỆU THÔ Hình 1.1: Ngành công nghiệp hỗ trợ, gồm linh kiện và chế biến Nguồn: Báo cáo điều tra xây dựng và tăng cường ngành công nghiệp phụ trợ tại Việt nam - KYOSHIRO ICHIKAWA (Tư vấn Đầu tư Cao cấp,Cục Xúc tiến Ngoại thương Nhật Bản tại Hà nội) Hình 1.1 là một ví dụ thể hiện khái niệm và kết cấu cơ bản của ngành công nghiệp hỗ trợ. Ngành CNHT cần được coi là một cơ sở công nghiệp hoạt động với
    10. 9 nhiều chức năng để phục vụ một số lượng lớn các ngành lắp ráp, chứ không nên coi nó đơn giản chỉ là ngành thu thập ngẫu nhiên những linh kiện sản xuất không liên quan. Bên cạnh đó, ngành CNHT không chỉ sản xuất linh kiện mà quan trọng hơn CNHT còn thực hiện quá trình hỗ trợ việc sản xuất các bộ phận nhựa và kim loại trong một số ngành như ngành sản xuất mô tô, ô tô, sản xuất điện tử, đóng tàu (xem hình 1.2) NGÀNH MÔ TÔ NGÀNH Ô TÔ NGÀNH ĐIỆN TỬ (ÂM THANH, TV, BÁN DẪN ) NGÀNH CÔNG NGÀNH ĐIỆN ( GIA DỤNG) NGHIỆP HỖ TRỢ NGÀNH ĐÓNG TÀU Hình 1.2: Ngành CNHT trên cơ sở có thể cung cấp đầu vào chung cho các ngành lắp ráp Nguồn: Báo cáo điều tra xây dựng và tăng cường ngành công nghiệp phụ trợ tại Việt nam - KYOSHIRO ICHIKAWA (Tư vấn Đầu tư Cao cấp,Cục Xúc tiến Ngoại thương Nhật Bản tại Hà nội) Trong nhiều văn bản, người ta có thể sử dụng thuật ngữ công nghiệp phụ trợ thay thế cho CNHT, tuy nhiên trên thực tế, công nghiệp hỗ trợ hay công nghiệp phụ trợ đều có nguyên gốc tiếng Anh là supporting industry nên xét về bản chất công nghiệp hỗ trợ và công nghiệp phụ trợ có ý nghĩa tương đương, do đó trong luận văn này, ta thống nhất sử dụng thuật ngữ “Công nghiệp hỗ trợ”. 1.1.2. Đặc điểm của ngành Công nghiệp hỗ trợ 1.1.2.1. Có hiệu quả tăng dần theo quy mô Hiệu quả tăng dần theo qui mô có nghĩa là nếu có một sự gia tăng đầu vào theo một tỉ lệ nào đó sẽ dẫn đến sự gia tăng đầu ra (sản lượng) với tỉ lệ cao hơn. Các ngành CNHT như tạo khuôn mẫu, gia công kim loại, ép nhựa cần nhiều vốn để đầu tư vào máy móc đắt tiền. Hơn nữa, những máy móc này lại không thể chia nhỏ được (tức là không thể mua từng phần máy móc được). Một khi đã đầu tư lắp đặt hệ
    11. 10 thống máy móc thì chi phí vốn cho nhà máy sẽ vẫn luôn ở một mức cố định cho dù hệ thống này được vận hành liên tục 24 giờ một ngày và 365 ngày một năm, hay chỉ vận hành trong một khoảng thời gian nhất định. Do vậy, chi phí vốn đơn vị (tổng chi phí chia cho số sản phẩm sản xuất) sẽ tỷ lệ nghịch với lượng sản phẩm đầu ra. Vì vậy CNHT là một ngành có hiệu quả tăng dần theo quy mô và để một doanh nghiệp hỗ trợ có thể tồn tại thì phải sản xuất phải đạt đến một mức sản lượng nhất định. Ví dụ, một nhà máy sản xuất được 600.000 linh kiện nhựa một năm sẽ đạt được hiệu quả sản xuất, trong khi một nhà máy khác chỉ sản xuất 2000 linh kiện nhựa một năm thì khó mà tồn tại được. Hiệu quả tăng dần theo quy mô của việc sản xuất các sản phẩm hỗ trợ được thể hiện trong hình 1.3: Hình 1.3: Giảm chi phí đơn vị trong CNHT CNHT là ngành sử dụng nhiều vốn, ít công lao động, nên sẽ có chi phí đơn vị giảm dần theo quy mô sản lượng. 1.1.2.2. Lao động làm việc trong ngành CNHT thường đòi hỏi chuyên môn cao Lao động làm việc trong ngành CNHT đòi hỏi chuyên môn cao vì các ngành công nghiệp hỗ trợ thường là các ngành công nghiệp sản xuất các chi tiết nhỏ, đòi hỏi có sự chính xác và tỉ mỉ cao. Nếu như các doanh nghiệp lắp ráp sử dụng nhiều nhân công không đòi hỏi trình độ cao để lắp ráp các bộ phận, thì lao động ở các doanh nghiệp CNHT phần lớn đòi hỏi có trình độ cao hơn, thường là các nhà vận hành máy móc, kiểm soát viên về chất lượng sản phẩm, các kĩ thuật viên và các kĩ
    12. 11 sư. Máy móc trong các ngành CNHT thường phức tạp hơn trong vận hành và các chi tiết, phụ kiện càng tinh xảo, phức tạp thì máy móc đòi hỏi công nghệ càng phải hiện đại, và người vận hành càng cần phải có trình độ để có khả năng vận hành. Đây là một điểm yếu của các nước đang phát triển vì phần lớn các nước này (trong đó có Việt Nam) thường là các nước có nguồn lao động dồi dào nhưng phần lớn lao động là lao động thủ công, trình độ chuyên môn nghiệp vụ thường có hạn chế. 1.1.2.3. Mang tính chuyên môn hóa sâu và hợp tác rộng Một doanh nghiệp không thể ôm đồm thực hiện tất cả các khâu trong quá trình sản xuất từ sản xuất nguyên vật liệu, máy móc, công cụ đến lắp ráp bán thành phẩm và thành phẩm, hay sản xuất nhiều loại sản phẩm cùng một lúc. Thông thường một doanh nghiệp hỗ trợ chỉ tập trung chuyên môn hóa vào một khâu mà mình có khả năng làm tốt nhất. Và cùng với quá trình phân công lao động ngày càng sâu sắc, các doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm phụ trợ không chỉ chuyên môn hóa theo từng sản phẩm mà còn theo từng chi tiết, từng bộ phận của sản phẩm.Việc chuyên môn hóa giúp nâng cao năng suất, giảm giá thành và cũng giúp ích cho việc đầu tư máy móc, công nghệ hiện đại, áp dụng các dây chuyền sản xuất mới. Chuyên môn hóa cũng là cơ sở dẫn tới nhu cầu phải có sự hợp tác rộng rãi giữa các doanh nghiệp để tạo ra sản phẩm cuối cùng. Các linh kiện, phụ kiện để có thể tích hợp được với nhau thì cần phải tuân theo những quy chuẩn chất lượng chung. Các doanh nghiệp phải có mối quan hệ mật thiết về mặt kĩ thuật và công nghệ để có thể tạo ra các sản phẩm hỗ trợ tốt nhất. 1.1.2.4. Các doanh nghiệp hỗ trợ thường là các doanh nghiệp vừa và nhỏ Các SME là các doanh nghiệp có quy mô vốn và quy mô lao động hạn chế nhưng lại có khả năng chuyên môn hóa cao. Hầu hết các doanh nghiệp chỉ có thể đủ vốn để đầu tư chuyên môn hóa sản xuất một loại sản phẩm hoặc một loại chi tiết nhất định, chứ không đủ tiềm lực để sản xuất nhiều sản phẩm hay chi tiết cùng một lúc do vậy, hiện nay hoạt động sản xuất trong công nghiệp hỗ trợ thường được tiến hành tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hoạt động của các SME này luôn gắn liền với hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp lớn từ đó các SME thường có mối liên hệ chặt chẽ về kinh tế, kỹ thuật với các doanh nghiệp lớn. Khi
    13. 12 mối liên hệ này trở nên thường xuyên và ổn định thì các SME có thể trở thành vệ tinh của các doanh nghiệp lắp ráp lớn. 1.1.2.5. Khách hàng của ngành công nghiệp hỗ trợ có thể ở trong và ngoài nước Bên cạnh việc cung cấp cho các doanh nghiệp lắp ráp trong nước, đối với các nước có ngành CNHT phát triển, sản phẩm của ngành CNHT có thể được xuất khẩu ra nước ngoài cung cấp cho các công ty lắp ráp nước ngoài hay mạng lưới các chi nhánh của các công ty xuyên quốc gia nằm ở nước ngoài. Để thực hiện điều này, các sản phẩm hỗ trợ phải đáp ứng được các tiêu chuẩn chất lượng, tiêu chuẩn xuất khẩu, đáp ứng các yêu cầu của nhà lắp ráp nước ngoài. 1.1.3 Các hình thức công nghiệp hỗ trợ hiện nay và các cấp hỗ trợ 1.1.3.1. Các hình thức công nghiệp hỗ trợ Có ba loại hình công nghiệp hỗ trợ phổ biến như sau : - Hỗ trợ “ruột” là loại hình khá phổ biến ở các nước công nghiệp, được các tập đoàn mạnh ứng dụng khá thành công. Theo loại hình này, một tập đoàn công nghiệp sẽ thành lập và phát triển cho mình một mạng lưới các nhà cung cấp dưới hình thức công ty mẹ - công ty con. Các công ty cung cấp chỉ thực hiện sản xuất linh kiện, phụ tùng quan trọng, hàm chứa các bí quyết công nghệ theo yêu cầu của các công ty lắp ráp trong tập đoàn. - Hình thức “hợp đồng” là loại hình công nghiệp hỗ trợ được thực hiện theo cam kết giữa các nhà cung cấp với các công ty lắp ráp theo từng yêu cầu và trong từng thời điểm nhất định đối với các linh kiện ít quan trọng hơn - Hình thức “thị trường” là loại hình mà các phụ tùng, phụ kiện có tính phổ biến, không chứa đựng nhiều bí quyết công nghệ, được các nhà sản xuất bán trên thị trường, không theo một cam kết nào với các nhà lắp ráp. Các công ty lắp ráp có thể tự do lựa chọn các sản phẩm mình cần trên thị trường. 1.1.3.2 Các cấp trong công nghiệp hỗ trợ Mối quan hệ giữa ngành công nghiệp chính và công nghiệp hỗ trợ được thể hiện theo hình 1.4 . Việc sản xuất các sản phẩm hỗ trợ được phân chia thành nhiêu cấp, có mối quan hệ với nhau hoặc với công nghiệp chính. Theo quan điểm của VDF, công nghiệp hỗ trợ có thể chia làm ba cấp (Xem hình 1.4). Các doanh nghiệp
    14. 13 hỗ trợ cấp 3 là các doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm đầu vào cho các doanh nghiệp hỗ trợ cấp 2. Các doanh nghiệp hỗ trợ cấp 2 cung cấp đầu vào cho các doanh nghiệm hỗ trợ cấp 1. Các doanh nghiệp hỗ trợ cấp 1 cung cấp đầu vào cho các doanh nghiệp sản xuất ra các sản phẩm cuối cùng. Tuy nhiên, sự phân cấp này chỉ mang tính tương đối do một doanh nghiệp có thể thuộc nhiều cấp khác nhau tuỳ thuộc vào ngành sản xuất và sản phẩm hỗ trợ. CẤP 3 CẤP 3 CẤP 3 CẤP 3 CẤP 3 CẤP 3 CẤP 3 CẤP 3 CẤP 3 CẤP 2 CẤP 2 CẤP 2 CẤP 2 CẤP 2 CẤP 2 CẤP 1 CẤP 1 CẤP 1 DA ĐÓNG TÀU ĐIỆN TỬ Ô TÔ CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM CN NẶNG HÓA CHẤT DỆT MAY XE MÁY CẤP 1 CẤP 1 CẤP 1 CẤP 2 CẤP 2 CẤP 2 CẤP 2 CẤP 2 CẤP 2 CẤP 3 CẤP 3 CẤP 3 CẤP 3 CẤP 3 CẤP 3 CẤP 3 CẤP 3 CẤP 3 Hình 1.4: Các cấp trong công nghiệp hỗ trợ Nguồn: Diễn đàn phát triển Việt Nam (2007), Xây dựng năng lực công nghệ nội sinh: Vai trò của chính phủ trong xây dựng công nghiệp phụ trợ. 1.1.4 Các phương thức sản xuất trong công nghiệp hỗ trợ Có hai loại cấu trúc sản xuất CNHT phổ biến là cấu trúc mô-đun và cấu trúc tích hợp. Trong cấu trúc mô-đun, cách thức liên kết giữa các bộ phận được tiêu chuẩn hóa để tạo ra sự liên kết dễ dàng. Ví dụ, máy tính cá nhân để bàn là một loại sản phẩm đặc trưng của sản xuất theo cấu trúc mô-đun, trong đó các bộ phận của nó có thể dễ dàng mua khắp thế giới để lắp ráp lại với nhau. Ngược lại trong cấu trúc
    15. 14 tích hợp, sự liên kết hết sức phức tạp và việc cải tiến sản xuất phải trải qua nhiều thử nghiệm cũng như thất bại. Ví dụ, ô tô phải được sản xuất theo cấu trúc tích hợp nếu muốn đạt được đa mục tiêu như hoạt động tốt, tiện lợi, tiết kiệm nhiên liệu, an toàn . Cấu trúc mô-đun phù hợp với việc sản xuất các sản phẩm có tính đại trà, thời gian sản xuất ngắn với chi phí thấp, trong khi cấu trúc tích hợp lại theo đuổi các sản phẩm có chất lượng cao và trong một thời gian dài. Nhật Bản là nước có nền sản xuất theo cấu trúc tích hợp nên Nhật Bản rất coi trọng việc vận hành nhà máy và liên kết sản phẩm có hiệu quả. Ngược lại, Hoa Kỳ lại nổi bật với nền sản xuất theo mô-đun và thực hiện tốt việc phân đoạn chuỗi cung cấp của một sản phẩm thành các phần phù hợp, chuẩn hóa chúng và tạo lợi nhuận nhờ những cải tiến trong việc kết hợp các thành phần này. Trung Quốc cũng là nước có nền sản xuất theo mô-đun, nhưng lợi thế cạnh tranh của Trung Quốc dựa vào các sản phẩm mô-đun sử dụng nhiều lao động, chứ không phải các sản phẩm mô-đun sử dụng nhiều tri thức như của Hoa Kì. Có thể coi Trung Quốc là nước có nền sản xuất bán mô-đun vì nền sản xuất của nước này có đặc điểm chính là sản xuất nhiều sản phẩm bằng việc bắt chước mẫu mã và công nghệ, chứ không phải bằng việc tự cải tiến. Có thể thấy được sự khác nhau giữa phương thức sản xuất mô-đun và sản xuất tích hợp qua bảng 1.5 Bảng 1.5: So sánh giữa sản xuất mô-đun và sản xuất tích hợp Sản xuất mô-đun Sản xuất tích hợp Đặc điểm chung Linh phụ kiện sản xuất đại trà Mỗi sản phẩm có linh phụ kiện của linh phụ và có thể dùng cho mọi loại riêng, được thiết kế riêng biệt kiện sản phẩm Điểm mạnh Sản xuất nhanh và linh hoạt Không ngừng nâng cao chất lượng Điểm yếu Không tạo sự khác biệt, quá Mất nhiều thời gian và công nhiều doanh nghiệp tham gia, sức để đạt được kết quả như ý lợi nhuận thấp, thiếu nghiên muốn cứu triển khai (R&D) Yêu cầu về tổ Mở, quyết định nhanh, linh Quan hệ lâu dài, xây dựng kĩ chức hoạt trong lựa chọn nguồn năng và kiến thức nội bộ cung cấp linh phụ kiện Nguồn: Diễn đàn phát triển Việt Nam (2006), Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam dưới góc nhìn của các nhà sản xuất Nhật Bản.
    16. 15 Như vậy, việc lựa chọn sản xuất công nghiệp hỗ trợ theo phương thức sản xuất mô- đun hay phương thức sản xuất tích hợp là tùy thuộc vào tình hình và điều kiện cụ thể của từng quốc gia nhằm theo đuổi mục tiêu riêng của từng nước sao cho phát huy tốt nhất mọi nguồn lực của nước đó để phát triển công nghiệp hỗ trợ. 1.2. Vai trò và các nhân tố ảnh hưởng tới công nghiệp hỗ trợ 1.2.1. Vai trò của công nghiệp hỗ trợ 1.2.1.1. Giúp tăng giá trị sản xuất của quốc gia trong chuỗi giá trị toàn cầu Mỗi sản phẩm được tạo ra đều có giá trị bao gồm một xâu chuỗi mắt xích nhiều giá trị kết nối tạo nên. Các mắt xích tạo nên giá trị cuối cùng của một sản phẩm ngày nay đã vượt ra ngoài biên giới quốc gia - lãnh thổ, hoặc một sản phẩm thuần túy ra đời tại một địa phương cụ thể nhưng vẫn mang giá trị toàn cầu do nền kinh tế khu vực và thế giới ngày càng có sự hội nhập sâu sắc. Chuỗi giá trị toàn cầu cho phép các công đoạn của chuỗi đặt tại nhiều địa điểm (quốc gia) khác nhau có khả năng đạt hiệu quả cao nhất với chi phí thấp nhất. Trong chuỗi giá trị toàn cầu ,các học giả thế giới cho rằng chu trình sáng tạo ra giá trị tăng thêm của một ngành công nghiệp được chia thành ba khu vực.  Khu vực thượng nguồn (up-stream) bao gồm các hoạt động nghiên cứu, triển khai, thiết kế, sản xuất các bộ phận, kinh kiện.  Khu vực trung nguồn (mid-stream) là công đoạn lắp ráp gia công.  Khu vực hạ nguồn (down-stream) bao gồm hoạt động khai thác thị trường, tiếp thị và xây dựng mạng lưới lưu thông, chiến lược, thương hiệu. Giá trị tăng thêm ở hai khu vực thượng nguồn và hạ nguồn là rất cao, còn khu vực trung nguồn là tương đối thấp. Theo số liệu điều tra do tổ chức Jetro tiến hành tại các cơ sở lắp ráp cơ khí của các nhà đầu tư Nhật Bản ở Đông Nam Á, chi phí linh kiện phụ tùng chiếm tới 70-90% giá thành sản phẩm, trong khi chi phí về nhân công chi chiếm khoảng 10%.[10] Những nước có nền công nghiệp phát triển nằm chủ yếu ở khâu thượng nguồn và khâu hạ nguồn. Từ việc làm chủ khâu thượng nguồn, phát triển mạnh khâu hạ nguồn, chuyển dịch khâu trung nguồn sang các nước đang phát triển, họ đã nắm giữ phần lớn – thậm chí hầu hết giá trị gia tăng của sản phẩm, và những gì mà
    17. 16 các nước nhận gia công, lắp ráp các sản phẩm nhận được chỉ là phần tiền công ít ỏi với giá lao động rẻ. Với những nước có nền công nghiệp bắt đầu phát triển khi hội nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế khu vực và toàn cầu, việc chỉ sản xuất lắp ráp những hàng hóa đơn giản mang lại những giá trị gia tăng rất thấp. Vậy làm thế nào để những nước này nhận được nhiều giá trị gia tăng hơn trong chuỗi giá trị toàn cầu, và gia tăng vị thế của ngành công nghiệp của một quốc gia. Câu trả lời là: cùng với việc mở rộng khu vực “trung nguồn” và “hạ nguồn”, các quốc gia cần quan tâm và nỗ lực tiến về phía “thượng nguồn”, trong đó phát triển công nghiệp hỗ trợ là một hướng ưu tiên quan trọng. 1.2.1.2 Thúc đẩy quá trình hiện đại hoá công nghiệp của một quốc gia CNHT tạo điều kiện cho một hệ thống sản xuất công nghiệp hiệu quả, một nguồn nhân lực hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp có trình độ cao, tạo điều kiện cho các ngành công nghiệp chính phát triển. Phát triển CNHT giúp các doanh nghiệp không cần phải thực hiện tất cả các khâu trong quá trình sản xuất, từ sản xuất nguyên vật liệu, máy móc, công cụ lắp ráp thành phẩm và bán thành phẩm. Việc chuyên môn hóa tạo điều kiện cho doanh nghiệp đầu tư máy móc, cải tiến công nghệ, từ đó nâng cao chất lượng và cắt giảm chi phí. CNHT còn là nền tảng cho các ngành công nghiệp nội địa phát triển. Chỉ có phát triển công nghiệp phụ trợ, thì các ngành ô tô, dệt may, điện tử, đóng tàu . mới có thể phát triển một cách ổn định và bền vững. Bên cạnh đó, khi phát triển CNHT, sẽ tạo ra nhiều việc làm mới cho người lao động . Phát triển CNHT cũng có nghĩa là phát triển được nguồn nhân lực có trình độ cao hơn, vượt qua yêu cầu của việc lắp ráp đơn giản tiến tới trình độ lao động đòi hỏi kỹ năng, tay nghề đáp ứng yêu cầu tăng trưởng bền vững và tăng sức cạnh tranh với các quốc gia cùng có lợi thế về nguồn lao động rẻ. 1.2.1.3. Nâng cao khả năng cạnh tranh cho hàng công n ghiệp xuất khẩu, giảm nhập siêu Khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu phụ thuộc vào 3 yếu tố cơ bản: chi phí, chất lượng, và thời gian thực hiện đơn hàng và giao hàng. Thứ nhất, việc phát triển ngành CNHT trong nước có thể giúp làm giảm chi phí sản xuất của các doanh nghiệp lắp ráp, và giảm thời gian giao hàng do giảm thời gian vận chuyện lưu kho
    18. 17 lưu bãi trong nhập khẩu. Thứ hai, chi phí sản xuất của doanh nghiệp sẽ giảm dần. Chi phí của một sản phẩm bao gồm chi phí nguyên vật liệu đầu vào, chi phí nhân công, chi phí sản xuất và chi phí cho hoạt động logistics . Tùy vào đặc điểm từng ngành nghề, từng sản phẩm mà tỷ lệ giữa các chi phí có thể khác nhau. Tuy nhiên, xét đến sản phẩm công nghiệp thì chi phí nguyên vật liệu đầu vào, linh kiện phụ tùng lại là lớn nhất. CNHT không phát triển sẽ làm cho các công ty lắp ráp và những công ty sản xuất thành phẩm cuối cùng không thể mua các sản phẩm trên thị trường nội địa do đó phát sinh nhu cầu nhập khẩu. Khi đó họ sẽ phải chịu thêm chi phí vận chuyển, bảo hiểm, rủi ro về thời gian, các tranh chấp nếu có. Những chi phí này làm gia tăng phí tổn đầu vào, dẫn tới giá thành sản xuất cao, hơn thế nữa chất lượng của hàng hoá lại không được đảm bảo do không thể kiểm soát được đầu vào linh phụ kiện mà phụ thuộc hoàn toàn vào chất lượng linh phụ kiện nhập khẩu, những yếu tố trên đã làm giảm khả năng cạnh tranh của hàng hóa kết quả là hàng hóa khó xuất khẩu hơn. Bên cạnh đó việc nhập khẩu cũng làm tăng tỉ lệ nhập siêu cho nền kinh tế. Quốc gia nào có ngành CNHT kém phát triển, quốc gia đó phải nhập khẩu một lượng lớn linh phụ kiện để phục vụ cho các doanh nghiệp lắp ráp trong nước. Phát triển CNHT không những giúp cải tiến công nghệ mà còn giúp cho các doanh nghiệp có thể mua sắm đầu vào ngay trong thị trường nội địa, thay vì phải nhập khẩu. 1.2.1.4 Đón nhận chuyển giao công nghệ và thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài Các ngành CNHT có vai trò đặc biệt quan trọng đối với các chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp sản xuất nước ngoài đặc biệt là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Việc phát triển CNHT sẽ mang lại lợi ích cho cả doanh nghiệp FDI và các doanh nghiệp phụ trợ. Các nhà lắp ráp FDI có thể giảm những chi phí phụ thêm như chi phí vận chuyển, lưu kho liên quan đến việc nhập khẩu. Các nhà cung cấp nội địa có thể nâng cao sản lượng sản xuất và tiếp thu những kĩ thuật sản xuất tiên tiến thông qua quan hệ làm ăn với các nhà lắp ráp FDI. Nhu cầu về các sản phẩm CNHT của các doanh nghiệp FDI trong lĩnh vực gia công, lắp ráp thường là rất lớn. Bởi lẽ, để lắp ráp hoàn chình một chiếc ô tô, người ta cần tới 20.000 – 30.000 linh kiện với các chi tiết khác nhau. Với một khối
    19. 18 lượng khổng lồ phụ tùng, linh kiện như vậy, ngay cả những tập đoàn công nghiệp lớn, có đủ năng lực chuyên môn, tài chính, nguồn nhân lực cũng không thể tự làm hết được tất cả các công đoạn một cách hiệu quả vì độ rủi ro lớn. Thay vào đó, họ chỉ đảm nhiệm những khâu trọng yếu nhất rồi sử dụng phụ tùng, linh kiện của các doanh nghiệp vệ tinh trong ngành CNHT để lắp ráp hoàn chỉnh thành phẩm và nắm giữ hệ thống phân phối. Nếu CNHT không phát triển, các nhà cung cấp không đáp ứng được các nhu cầu của các nhà lắp ráp, thì các nhà lắp ráp phải tiến hành nhập khẩu. Do đó, có thể khẳng định rằng, sự yếu kém của ngành CNHT chính là một yếu tố làm hạn chế sức cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường, đánh mất sức hấp dẫn đối với các doanh nghiệp FDI Các công ty đa quốc gia khi quyết định có nên mở rộng đầu tư sản xuất ở một quốc gia không bên cạnh việc xem xét về nguồn nhân lực, còn xem xét cả về tình hình CNHT ở quốc gia đó. Việc công nghiệp hỗ trợ phát triển ở một nước sẽ khiến cho nước đó hấp dẫn hơn trong con mắt của nhà đầu tư do họ có thể tận dụng nguồn linh phụ kiện, đầu vào sản xuất ngày trong nước mà không phải nhập khẩu, và các MNCs có thể xây dựng được các chiến lược sản xuất kinh doanh, giảm giá thành sản xuất tốt hơn trong môi trường có CNHT phát triển. 1.2.2. Những nhân tố ảnh hưởng tới sự phát triển của công nghiệp hỗ trợ 1.2.2.1. Dung lượng thị trường Dung lượng thị trường lớn đóng vai trò rất quan trọng đối với CNHT vì ngành này luôn đòi hỏi phải có lượng đặt hàng tối thiểu tương đối lớn thì mới có thể tham gia vào thị trường. Nói chung, điều này phản ánh một thực tế là CNHT thường đòi hỏi đầu tư nhiều vốn hơn công nghiệp lắp ráp – ngành thường đòi hỏi nhiều lao động. Một nhà sản xuất linh phụ kiện ô tô đã nhận định rằng, chỉ cần dung lượng thị trường lớn thì dù không có chính sách hỗ trợ nào, CNHT vẫn sẽ phát triển một cách tự nhiên. Đặc điểm của CNHT là loại hình công nghiệp có hiệu quả tăng dần theo quy mô. Sản phẩm của CNHT là các sản phẩm máy móc linh kiện, phụ tùng khó có thể được làm thủ công. Các chi tiết, phụ kiện càng tinh xảo, phức tạp và chi phí càng cao thì sau khi đã đầu tư, thì doanh nghiệp càng sản xuất nhiều, thì tỉ lệ giữa chi phí cố định trên một sản phẩm càng giảm xuống, và điều này mang lại hiệu quả, giúp mau chóng bù đắp được chi phí đầu tư ban đầu. Đây chính là lý do tại sao các
    20. 19 nhà sản xuất linh phụ kiện cần được đảm bảo dung lượng thị trường phải đủ lớn (hoặc dung lượng thị trường sẽ lớn trong tương lai gần) trước khi họ quyết định đầu tư vào. Nếu một quy mô cầu đủ lớn thì sẽ là nhân tố thuận lợi giúp phát triển CNHT. Trong trường hợp dung lượng thị trường trong nước hạn hẹp, nhưng lại có thể tìm kiếm được thị trường xuất khấu, thì CNHT vẫn có thể phát triển. Đối với các nhà cung cấp linh kiện điều này có thể tiến hành trực tiếp thông qua việc xuất khẩu linh kiện hoặc tiến hành gián tiếp thông qua việc cung cấp linh kiện cho các nhà lắp ráp nội địa có khả năng xuất khẩu các sản phẩm cuối cùng Để xuất khẩu trực tiếp linh kiện, một câu hỏi quan trọng đặt ra là tính cạnh tranh quốc tế của các sản phẩm. Chỉ có những linh kiện thỏa mãn các điều kiện sau mới có khả năng xuất khẩu. Thứ nhất, những sản phẩm này phải đạt được tính cạnh tranh về chi phí bằng cách khai thác triệt để các lợi thế tương đối của quốc gia như lao động rẻ và cần cù. Thứ hai, các linh kiện và nguyên liệu sử dụng trong quá trình sản xuất phải có chi phí thấp và mức thuế suất phải bằng 0% hoặc rất thấp. Thứ ba, các sản phẩm này phải có kích thước tương đối nhỏ gọn và giá trị cao. Thứ tư, hệ thống các dịch vụ hậu cần phải hoàn thiện nhằm tối thiểu hóa chi phí và thời gian vận chuyển. Nói cách khác các linh kiện xuất khẩu phải có hàm lượng lao động cao, kích cỡ nhỏ gọn và giá trị lớn. Ngoài ra, những linh kiện này phải là những bộ phận/chi tiết không đòi hỏi quy định nghiêm ngặt về thời gian giao hàng (do khi xuất khẩu cần phải chịu thời gian về vận chuyển từ quốc gia này sang quốc gia khác, thời gian giao nhận hàng, lưu kho bến bãi). 1.2.2.2. Kênh thông tin dành cho công nghiệp hỗ trợ Kênh thông tin tốt có thể giúp các nhà lắp ráp và các doanh nghiệp hỗ trợ có thể tìm đến nhau. Doanh nghiệp hỗ trợ biết được các nhà lắp ráp đang có nhu cầu gì, số lượng sản phẩm là bao nhiêu, chất lượng như thế nào và các doanh nghiệp lắp ráp có thể biết được doanh nghiệp cung cấp mà họ có thể hợp tác đang ở đâu. Kênh thông tin cũng giúp cho các doanh nghiệp tiếp cận được với các nguồn vốn để có thể mua sắm máy móc và trang thiết bị doanh nghiệp. Việc xây dựng một kênh thông tin tốt sẽ giúp doanh nghiệp sản xuất hiệu quả hơn và tăng tính cạnh tranh. Ngày nay, kênh thông tin, mạng lưới các doanh nghiệp lắp ráp và các doanh nghiệp
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...