Chuyên Đề Phật giáo đối với cuộc sống nhân sinh

Thảo luận trong 'Khảo Cổ Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    LỜI NÓI ĐẦU
    Nho giáo, Đạo giáo và Phật giáo là ba nguồn
    gốc văn hóa của dân tộc Việt nam ta từ xưa.
    Nho giáo dạy ta biết cách xử kỷ tiếp vật, khiến ta biết
    đường ăn ở cho phải đạo làm người. Đạo giáo lấy đạo
    làm chủ tể cả vũ trụ và dạy ta nên lấy thanh tĩnh vô
    vi nơi yên lặng. Phật giáo dạy ta biết cuộc đời là khổ
    não, đưa ta đi vào con đường giải thoát, ra ngoài cuộc
    ảo hóa điên đảo mà vào chốn Niết-bàn yên vui.
    Ba học thuyết ấy thành ra ba tôn giáo, người ta
    thường gọi là Tam giáo, đều có ảnh hưởng rất sâu về
    tín ngưỡng và hành vi trong sinh hoạt của dân ta ngày
    xưa. Đến nay cuộc đời thay đổi, người ta theo khuynh
    hướng vật chất, coi rẻ những điều đạo lý nhân nghĩa.
    Đó cũng là sự dời đổi biến hóa trong cuộc đời.
    Đời là biến hóa không có gì là thường định. Mỗi
    một cuộc biến hóa lại giống một mắt xích trong cái
    dây xích, rồi cái nọ tiếp giáp cái kia, thành cái dây dài
    không biết đâu là cùng tận. Sự biến hóa tuần hoàn ấy,
    kể thực ra không có gì là chuẩn đích nhất định, chẳng
    qua là nó theo thời mà luân chuyển. Cái trước ta cho
    là tốt, thì bây giờ ta cho là xấu; cái bây giờ ta cho là
    6
    LỜI NÓI ĐẦU
    hay, sau này người ta lại cho là dở. Dở dở, hay hay vô
    thường vô định, thành ra như cái trò quỉ thuật làm
    cho người ta mê hoặc.
    Các bậc thánh hiền đời trước, biết rõ những điều
    ấy, muốn tìm ra một con đường mà đi trong chỗ tối
    tăm mờ mịt, nên mới lập ra học thuyết nọ, tôn giáo
    kia để đưa người ta đi cho khỏi mắc phải chông gai
    nguy hiểm. Nho giáo, Đạo giáo và Phật giáo đều có
    một quan niệm như thế cả. Song mỗi một học thuyết
    có một tôn chỉ và một phương pháp riêng để học đạo tu
    thân, cho nên cách luận lý, cách lập giáo và sự hành
    đạo có nhiều chỗ khác nhau.
    Bàn về căn nguyên của vũ trụ, thì học thuyết nào
    trong Tam giáo cũng lấy cái lý tuyệt đối làm căn bản,
    cho vạn vật sinh hóa đều gốc ở cái một. Gọi cái một
    là thái cực, là đạo, là chân như hay là thái hư,1 danh
    hiệu tuy khác, nhưng vẫn là một lý. Chia ra thì thành
    trăm đường nghìn lối, mà thu lại chỉ có một. Đó là cái ý
    của Khổng Tử nói ở thiên Hệ từ trong Kinh Dịch rằng:
    “Thiên hạ đồng quy nhi thù đồ, nhất trí nhi bách lự.”2
    1 Có vẻ như tương đồng với Tánh Không (Sunyatā) trong
    Phật giáo Đại thừa.
    2 天下同歸而殊塗,一致而百慮 - Thiên hạ tuy có nhiều
    đường khác nhau, nhưng cùng về một chỗ; trăm lo, nhưng
    về một mối.
    7
    LỜI NÓI ĐẦU
    Cái một ấy mới thật là cái có tuyệt đối thường định
    tự tại. Còn vạn vật là sự biến hóa của cái một ấy, thì
    chỉ là những cái có tỷ lệ tương đối, tức là những ảo
    tưởng vô thường mà thôi.

    Vạn vật đã là ảo tưởng, thì cuộc đời có khác chi
    những vở tuồng ở trên sân khấu, bày ra đủ mọi trò rồi
    lại biến mất. Cho nên xét đến cùng thì Nho, Đạo và
    Phật đối với cuộc đời đều có cái tư tưởng như thế cả.
    Song Nho giáo thì cho rằng dù thế nào cũng là bởi cái
    lý tự nhiên, mà đã sinh ra làm người để diễn các trò
    tuồng, thì ta hãy cứ đóng các vai trò cho khéo, cho giỏi,
    khỏi phụ cái tiếng ra đóng trò. Đạo giáo thì cho rằng
    đã là trò tuồng, ta nên tìm chỗ yên lặng để ngồi mà
    xem, tội gì ra nhảy múa cho nhọc mệt. Phật giáo thì
    cho rằng các trò tuồng là nguồn gốc sự đau buồn khổ
    não, lăn lộn vào đó làm gì cho thêm buồn thêm khổ,
    chi bằng tìm lối ra ngoài những cuộc múa rối ấy, đến
    nơi yên vui thảnh thơi, khỏi phải ở những chỗ ô trọc
    xấu xa.
    Cái ví dụ giản dị ấy có thể biểu lộ được những khác
    biệt về thái độ và nền tư tưởng của Nho giáo, Đạo giáo
    và Phật giáo. Nho giáo thì hướng về đạo xử thế, Đạo
    giáo và Phật giáo thì hướng về đạo xuất thế. Song Đạo
    8
    LỜI NÓI ĐẦU
    giáo vẫn ở trong sự biến hóa càn khôn, mà Phật giáo
    thì ra hẳn bên ngoài càn khôn.
    Đó là nói cái đại thể, chứ tựu trung ba học thuyết
    ấy, học thuyết nào cũng có chỗ nhập thế gian và xuất
    thế gian. Ngay cái học thiết thực như Nho giáo mà
    cũng có người như Nguyên Hiến chịu an bần lạc đạo,1
    không thèm ganh đua danh lợi ở đời; mà trong những
    người tin theo Đạo giáo hay Phật giáo, thường cũng
    thấy có người cúc cung tận tụy với việc đời để cứu nhân
    độ thế. Vậy thì Tam giáo tuy có khác nhau ở chỗ lập
    giáo và hành đạo, nhưng lên đến chỗ cùng tột tuyệt đối
    thì cùng gặp nhau ở chỗ lý tưởng, cho nên vẫn dung
    nạp được nhau. Đó là cái đặc sắc của các tôn giáo ở Á
    Đông.
    Nhân khi Hội Phật giáo ở Bắc Việt thành lập, tôi
    có đọc mấy bài diễn văn nói về Phật giáo. Sau vì loạn
    lạc, sách vở bị đốt cháy, tôi về Sài Gòn nhặt được ba
    bài, xếp thành một tập, mong có ngày in ra được để tín
    đồ nhà Phật có thể xem mà suy xét thêm về cái đạo rất
    mầu nhiệm ở trong thế gian này.
    TRẦN TRỌNG KIM
    1 An bần lạc đạo: Sống yên trong cảnh nghèo mà vui mối
    đạo.
    9
    PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI CUỘC NHÂN SINH
    Nam mô A-di-đà Phật,
    Thưa các cụ và các bà,
    Thưa các ngài,
    Từ khi Hội Phật giáo thành lập đến giờ, các sư
    cụ trong ban đạo sư đã thuyết pháp và giảng kinh
    mấy lần rồi. Nay đến lượt chúng tôi được Hội cử ra nói
    chuyện hầu các cụ và các ngài, tôi xin nói câu chuyện:
    Phật giáo đối với cuộc nhân sinh.
    Đem cái đạo lý của một tôn giáo rất rộng và rất
    khó như đạo Phật mà nói trong chốc lát, thì thật không
    phải việc dễ. Nhưng vì đây là ở trước Tam bảo, nhờ có
    cái đức từ bi vô lượng của Phật, thì dù tôi có vụng về
    hay sai lầm thế nào nữa, chắc các cụ và các ngài cũng
    thể lòng đức Phật mà dung thứ cho. Vậy nên tuy biết
    là khó mà không lo ngại lắm.
    Trong câu chuyện tôi sẽ nói có bốn đoạn: Đoạn đầu
    nói qua các mục đích tại sao mà lập ra Hội này, đoạn
    CÁC BÀI DIỄN THUYẾT VỀ PHẬT GIÁO
    10
    thứ hai nói lược qua lịch sử của Phật tổ Thích-ca, đoạn
    thứ ba nói mấy điều cốt yếu trong Phật pháp, đoạn
    sau cùng xét xem đạo Phật quan hệ đến cuộc nhân
    sinh là thế nào. Tôi sẽ cố sức nói vắn tắt và dễ hiểu, để
    khỏi phụ tấm lòng sốt sắng của các cụ và các ngài đã
    chịu khó đến nghe đông đúc như thế này. Tôi rất lấy
    làm hân hạnh và xin có lời thành thật cảm tạ các cụ
    và các ngài.
    Chúng tôi sở dĩ lập ra Hội Phật giáo này là vì mấy
    lẽ sau, tôi tưởng cũng nên nhắc lại để bà con trong Hội
    hiểu rõ.
    Người ta ở đời bao giờ cũng cần phải giữ sao cho
    phần tinh thần và vật chất được điều hòa với nhau,
    thì sự sinh hoạt của ta mới được mỹ mãn, bởi vì phần
    tinh thần có mạnh mẽ, minh mẫn thì phần vật chất
    mới được khỏe khoắn, tốt tươi. Phần vật chất thuộc
    về hình thể, quan hệ đến hình thức của mọi sự vật;
    phần tinh thần thì không có hình, phải nương vào vật
    chất để phát hiện ra. Song phải có tinh thần thì sự
    hành động của vật chất mới có nghĩa lý. Cũng vì thế,
    cho nên bất kỳ xã hội nào cũng có những tôn giáo hay
    là những tư tưởng cao siêu nào đó để chủ trương sự
    sinh hoạt của loài người. Những tôn giáo và những
    tư tưởng ấy đều phải căn cứ vào một tôn chỉ nào có ý
    nghĩa cao minh và rõ ràng để người ta tin mà theo. Cái
    11
    PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI CUỘC NHÂN SINH
    tôn chỉ ấy lại phải thích hợp với tính tình và trình độ
    nhiều người, thì lòng tin của người ta vào nó mới chắc
    chắn, vững bền. Vậy trong các tôn chỉ dễ hiểu, dễ theo,
    thì không gì bằng tôn chỉ của các tôn giáo, người ta
    thường lấy để làm chỗ quy túc, nghĩa là chỗ kết thúc,
    chỗ nương tựa cuối cùng.
    Nước Việt Nam ta có đạo Nho và đạo Phật là phổ
    thông hơn cả. Hai đạo ấy đều có tôn chỉ rất cao và lại
    có ý nghĩa rất hay về đường thực tiễn. Nhưng Nho
    thì lấy cái lẽ tự nhiên của tạo hóa làm gốc, lấy nhân,
    nghĩa, lễ, trí, tín làm chỗ quy túc, mà Phật thì lấy sự
    giải thoát ra ngoài tạo hóa làm mục đích, lấy Niết-bàn
    tịch tĩnh làm chỗ quy túc. Bởi thế cho nên Nho thì chú
    trọng ở việc xử thế mà ít nói đến sự sống chết, Phật thì
    chú trọng ở việc xuất thế và hay nói về sự sống chết.
    Việc sống chết là một vấn đề tự cổ chí kim, tự đông
    chí tây. Biết bao nhiêu những bậc trí tuệ, tài giỏi đã
    cố hết sức tìm tòi mà vẫn không giải quyết được, cho
    nên vấn đề ấy vẫn luôn ám ảnh trong lòng người ta.
    Thường thì những người trí thức có thể nhờ vào tư
    tưởng của mình mà an ủi, nhưng đa số trong quần
    chúng đều không muốn có sự hoài nghi về điều đó,
    người ta chỉ cầu lấy có cái cơ sở nào có thể tin được để
    tin cho yên. Bởi vậy đa số mọi người đều cần có tôn
    giáo.
    CÁC BÀI DIỄN THUYẾT VỀ PHẬT GIÁO
    12
    Đạo Phật là một tôn giáo mà dân ta từ xưa nay
    vẫn tin theo rất nhiều, vì đạo ấy có hình thức dễ khiến
    người ta tin được. Còn về đạo lý của nhà Phật thì có
    nhiều ý nghĩa sâu xa. Hiện những nhà học thức trong
    thiên hạ cũng đã kê cứu tường tận và đều nhận là
    một đạo rất cao, rất hay. Vậy một tôn giáo có phần rất
    cao thâm, rất phổ thông mà lại thấm thía vào tủy não
    người mình đã bao nhiêu đời nay, người trong nước
    hầu khắp từ Nam chí Bắc, ai ai cũng tín ngưỡng và
    sùng bái, thì tất là có ảnh hưởng đến sự làm ăn hằng
    ngày của ta. Một cái đạo có thế lực về đường tinh thần
    sâu xa như thế, thì sao ta không cố gắng làm cho nó
    sáng rõ ra, khiến những tín đồ biết rõ cái đạo của mình
    tin và biết cách ăn ở cho phải đạo, để bớt được những
    sự khổ não trong đời? Chẳng hơn là cứ bo bo ở chỗ vật
    chất nông nổi, hẹp hòi, biến đổi vô thường, nay thế
    này, mai thế khác, làm cho người ta bơ vơ không biết
    bấu víu vào đâu, tựa như chiếc thuyền lênh đênh giữa
    dòng, không biết đâu là bờ là bến hay sao?
    Bởi những lẽ ấy cho nên chúng tôi rủ nhau lập nên
    hội Hội Phật giáo này, chủ ý là muốn làm cho sáng cái
    đạo đã mờ, muốn trau chuốt cho đẹp đẽ hơn trước và
    lại thích hợp hơn với sự nhu yếu của người đời.
    Nói thật tình thì ngày nay nói đến đạo Phật, phần
    nhiều người vẫn tưởng là theo đạo Phật chỉ cần những
    ngày rằm, mồng một nhớ ăn chay và đến chùa lễ Phật
    13
    PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI CUỘC NHÂN SINH
    mà thôi, ngoài ra không mấy người hiểu đến cội nguồn
    đạo Phật là thế nào, không biết đạo lý sâu nông ra sao,
    thậm chí có kẻ ngày ngày miệng niệm Phật, tay lần
    tràng hạt, mà bao nhiêu hành động đều trái hẳn với
    đạo Phật. Đó chẳng qua là cái tập tục của người mình,
    chỉ theo thói thường mà làm, chứ không để ý suy nghĩ
    đến nghĩa lý của những việc mình làm. Ấy cũng là một
    điều ta nên lưu tâm để tìm cách sửa đổi.
    Ta vẫn nghe nói và biết rằng đức Phật là từ bi bác
    ái, cứu nhân độ thế, nhưng thường chưa dễ mấy người
    đã hiểu nghĩa chữ Phật là thế nào!
    Chữ “Phật” do tiếng Phạn1 là Buddha. Khi đạo
    Phật truyền sang Trung Hoa, người Trung Hoa phiên
    âm chữ này là Phù-đồ (浮屠) hay là Phật-đà (佛陀).2
    Về sau, chữ Phật-đà được dùng phổ thông hơn, và theo
    tiếng độc âm của Trung Hoa mà gọi tắt là Phật (佛).
    Chữ Buddha dịch theo nghĩa chữ Hán là “giác giả”
    (覺者), nghĩa là người tỉnh giác, hiểu biết. Giác giả là
    người biết rõ đến tận nguồn gốc các sự vật ở trong vũ
    1 Sanskrit, một ngôn ngữ được dùng ở Ấn Độ từ trước thời đức
    Phật, còn gọi là Bắc Phạn. Ngoài ra còn có ngôn ngữ Pali gọi
    là Nam Phạn.
    2 Cũng từ chữ này, khi trực tiếp truyền sang nước ta vào
    khoảng thế kỷ thứ nhất, được dân gian đọc là Bụt-đà, sau đó
    nói tắt lại là Bụt.
    CÁC BÀI DIỄN THUYẾT VỀ PHẬT GIÁO
    14
    trụ. Vậy Phật là đấng thánh nhân biết rõ hết thảy các
    lẽ của tạo hóa và có thể chỉ bảo cho ta giải thoát khỏi
    sanh tử luân hồi.
    Các bậc “giác giả” đều là Phật, nhưng đức Phật
    khai sáng đạo Phật là đức Phật Thích-ca Mâu-ni, đản
    sinh ở Ấn Độ. Ngài thuở chưa xuất gia, tên húy là Tấtđạt-
    đa,1 họ là Cồ-đàm,2 con vua Tịnh Phạn,3 tại một
    xứ ở phía Bắc Ấn Độ4 thời bấy giờ. Cứ theo những sách
    của nhà Phật, thì ngài đã tu đến vô số kiếp rồi mới lên
    đến bậc Bồ Tát ở trên tầng trời Đâu-suất, giáo hóa các
    vị thần thánh ở đó. Ngài chờ đến ngày đản sinh và tu
    một kiếp nữa là thành Phật. Bởi vì theo vũ trụ quan
    của đạo Phật thì ở trên trời có nhiều tầng, mà các vị
    thần thánh ở trên vẫn còn trong vòng sinh diệt, chỉ có
    Phật mới hoàn toàn giải thoát ra khỏi luân hồi.
    Ngày mồng tám tháng tư là ngày đức Phật Thíchca
    đản sinh, vào đời vua Linh vương nhà Chu bên
    Trung Hoa, vào khoảng hơn 500 năm trước Tây lịch,5
    1 Tiếng Phạn là Siddhārtha.
    2 Tiếng Phạn là Gotama.
    3 Tiếng Phạn là Śuddhodana.
    4 Vùng đất này ngày nay thuộc nước Nepal.
    5 Ngày nay, theo sự thống nhất của Phật giáo thế giới thì năm
    Phật đản sanh là năm 563 trước Công nguyên, và ngày đản
    sinh theo âm lịch là ngày trăng tròn, tức ngày rằm tháng tư.
    15
    PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI CUỘC NHÂN SINH
    cũng gần như đồng thời với Lão tử và Khổng tử. Khi
    ngài vừa sinh ra thì có ông tiên đến xem tướng,1 nói
    ngài có 32 tướng lạ, nếu ngày sau không xuất gia đi tu
    đạo thì ngài sẽ làm vua cả thiên hạ; nếu ngài đi tu thì
    thành chánh quả.
    Ngài sinh được 7 ngày thì bà mẹ mất,2 bà dì nuôi.
    Ngài lớn lên đến 10 tuổi, thông minh lạ thường và có
    sức khỏe tuyệt luân. Vua Tịnh Phạn lập ngài lên làm
    thái tử và vẫn lo ngài xuất gia đi tu, cho nên vua đặt
    ra các thứ vui chơi để ngài không nghĩ đến việc đi tu
    đạo, và cấm không cho ai được để ngài trông thấy điều
    gì buồn khổ. Năm ngài 17 tuổi thì lấy vợ, về sau lại có
    con.
    Nhưng cái tiền duyên đã định, nhà vua dù muốn
    giữ gìn thế nào cũng không được, tự nhiên có những cơ
    hội như giục ngài phải đi tu đạo để thành Phật. Như
    khi ngài mới 10 tuổi, một hôm theo phụ vương đi xem
    dân làm ruộng,3 ngài thấy người cày ruộng chân lấm
    tay bùn, mình mẩy nắng cháy nám đen, mồ hôi tuôn
    chảy nhọc mệt vô cùng; con trâu con bò thì phải kéo
    cày rất khổ sở, mũi bị dây xỏ, mình bị roi đánh; chỗ đất
    1 Vị tiên nhân này tên là A-tư-đà (Asita).
    2 Tức hoàng hậu Ma-da (Māyā).
    3 Đó là dịp tổ chức lễ Hạ điền vào đầu vụ mùa, vua đến tham
    dự để cày đường cày đầu tiên dưới ruộng.
    CÁC BÀI DIỄN THUYẾT VỀ PHẬT GIÁO
    16
    cày lên, thì bao nhiêu sâu bọ phơi bày ra, chim chóc
    trên trời bay xuống tranh nhau mổ nuốt. Ngài thấy cái
    cảnh khổ của chúng sinh như thế, lấy làm thương xót
    lắm, bèn bảo những người theo hầu lui ra để ngài ngồi
    một mình ở gốc cây mà suy nghĩ.
    Đến năm 19 tuổi, một hôm ngài đi xe ra ngoài
    thành về phía cửa đông, thấy một người đầu bạc lưng
    còng, chống gậy đi ra vẻ nhọc mệt. Ngài hỏi các quan
    đi theo hầu rằng: “Người ấy sao lại khác với chúng ta?”
    Các quan thưa vì đó là người già. “Thế nào là già?”
    Thưa rằng: “Người ấy xưa kia đã từng qua thời thơ
    dại, sau thành đồng tử, thành thiếu niên, rồi cứ biến
    đổi mãi, dần dần đến khi hình biến sắc suy, ăn uống
    không tiêu, khí lực kém hèn, đứng ngồi rất là khổ sở,
    sống chẳng được bao lâu, cho nên gọi là già.” Lại hỏi:
    “Có một người ấy như thế, hay là hết thảy ai cũng
    thế?” Thưa rằng: “Làm người ai cũng thế cả.” Ngài
    nghe lời ấy, trong lòng khổ não, tự nghĩ rằng: “Năm
    qua tháng lại, cái già đến nhanh như chớp. Ta dù phú
    quý cũng không khỏi được.” Bản tính ngài đã không
    thích cảnh thế tục, nay lại trông thấy sự khổ của loài
    người, càng thêm buồn bã, bảo quay xe về cung, nghĩ
    ngợi không vui.
    Cách ít lâu ngài đi xe ra chơi ngoài cửa nam, thấy
    một người có bệnh, bủng beo vàng vọt, đứng ngồi
    17
    PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI CUỘC NHÂN SINH
    không được, phải có người dìu dắt. Ngài hỏi, thì các
    quan hầu kể cái khổ về bệnh tật của loài người. Ngài
    lại buồn bã mà trở về.
    Được mấy hôm, ngài đi xe ra chơi ngoài cửa tây,
    thấy cái xác người chết, có bốn người khiêng, theo sau
    là những người đầu bù tóc xõa, kêu gào khóc lóc. Ngài
    hỏi, thì các quan hầu lại kể cái khổ về sự chết. Ngài lại
    buồn bã mà trở về.
    Lần sau cùng ngài đi ra ngoài cửa bắc, gặp một
    người tu hành, tóc râu cạo sạch, mặc áo nhà tu, một
    tay bưng bình bát, một tay cầm tích trượng, dáng điệu
    trang nghiêm, thanh thản, ngài đến gần hỏi là ai.
    Người ấy đáp rằng: “Ta là tỳ-kheo.” Hỏi: “Thế nào gọi
    là tỳ-kheo?” Đáp: “Tỳ-kheo là người lìa bỏ cảnh sống
    thế tục, sống cuộc sống không nhà cầu tìm đạo giải
    thoát.” Ngài nghe nói cái công đức của người tu hành
    như thế, liền nói to lên rằng: “Hay thay, hay thay! Ta
    quyết theo cuộc sống như thế.” Lần ấy ngài vui vẻ mà
    trở về, và quyết chí xuất gia tìm đạo.
    Ấy là do nhân duyên từ trước mà ngài trông thấy
    những cảnh khổ là cảnh già, cảnh bệnh tật và cảnh
    chết, và lại trông thấy cảnh tu hành để giải thoát hết
    thảy những cái khổ ở đời. Nửa đêm ngày mồng bảy,
    sáng mồng tám tháng hai, trong khi mọi người còn
    ngủ say cả, ngài sai tên hầu ngựa đóng ngựa cho ngài
    CÁC BÀI DIỄN THUYẾT VỀ PHẬT GIÁO
    18
    đi ra phía bắc. Khi ra khỏi cửa thành, ngài phát thệ
    rằng: “Nếu ta không dứt hết được sự ưu bi, khổ não về
    sự sinh, lão, bệnh, tử, không được A-nậu-đa-la Tammiệu
    Tam-Bồ-đề,1 thì ta không về qua cửa này nữa.”
    Thái tử Tất-đạt-đa bỏ nhà, bỏ nước đi tu, đi về
    phía núi Tuyết sơn, cắt tóc đổi áo, cho tên hầu ngựa
    về tạ lỗi với phụ vương, rồi một mình vào rừng đi tìm
    những bậc tu tiên để hỏi đạo. Vua Tịnh Phạn khi biết
    thái tử đã xuất gia rồi, sai các quan đại thần đi khuyên
    ngài về, ngài lập chí nhất quyết không về.
    Ngài đi khắp các nơi, học hết các đạo thời bấy giờ,
    nhưng không có đạo nào giải thoát được sự khổ. Sau
    ngài cùng với bọn Kiều-trần-như năm người, vào rừng
    tĩnh tọa mà suy nghĩ để quan sát cái căn nguyên sự
    khổ của chúng sinh. Ngài tu theo lối khổ hạnh ở chỗ ấy
    sáu năm, ăn mỗi ngày mấy hạt vừng và mấy hạt gạo,
    về sau thân thể gầy còm, rất là nhọc mệt. Ngài tự nghĩ
    rằng: “Ta tu khổ hạnh như thế này mà không thấy
    đạo, thì cách tu của ta vẫn chưa phải, chi bằng ta phải
    theo trung đạo, nghĩa là theo con đường giữa, không
    say mê việc đời và cũng không khắc khổ hại thân, cứ
    ăn uống như thường, rồi mới thành đạo được.”
    Ngài nghĩ thế rồi xuống sông tắm rửa, lại nhân
    có người đàn bà đi chăn bò đem sữa dâng cho ngài.
    1 Tiếng Phạn là Anuttara-samyak-saṃbodhi, Hán dịch là
    Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác (無上正等正覺).
    19
    PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI CUỘC NHÂN SINH
    Ngài dùng sữa rồi, thấy trong người khoan khoái, tỉnh
    táo lắm. Bọn Kiều-trần-như thấy ngài bỏ khổ hạnh,
    tưởng ngài đã thoái chí, đều bỏ ngài mà đi tu chỗ khác.
    Ngài một mình đi đến chỗ cây Bồ-đề, lấy cỏ làm
    chiếu mà ngồi, lập nguyện rằng: “Nếu không thành
    chánh quả, quyết không đứng dậy khỏi gốc cây này.”
    Ngài ngồi dưới gốc cây bồ-đề trong suốt 49 ngày
    đêm, suy nghĩ về cái khổ của chúng sinh. Đến đêm
    ngày mồng 8 tháng 12 thì ngài hoát nhiên ngộ đạo,
    thành tối chánh giác, tức là thành Phật. Bấy giờ ngài
    vừa 35 tuổi và lấy hiệu là Phật Thích-ca Mâu-ni.
    Trong các kinh sách thường gọi là đức Thế Tôn hay
    đức Như Lai.
    Ta cũng nên tìm hiểu nghĩa hai chữ ngộ đạo. Chữ
    ngộ dùng về đường tu luyện hay học vấn, là trước hết
    cần phải đem hết cả tinh thần chú ý vào một điều gì
    rất lâu ngày, rồi có một lúc bất thình lình ở trong trí
    não tự nhiên sáng bừng lên, thấy rõ hết các lẽ thật mà
    xưa nay mình nghĩ ngợi hay là tìm kiếm không thấy.
    Lúc đức Phật Thích-ca Mâu-ni ngộ đạo, chính là lúc
    ngài thấy rõ Tứ thánh đế1 và Thập nhị nhân duyên
    cùng mọi lẽ thật rốt ráo khác, ấy là được A-nậu-đa-la
    Tam-miệu Tam-Bồ-đề vậy.
    1 Tức là Tứ diệu đế, bốn chân lý không gì thay đổi được. Đó
    là các chân lý về Khổ, Tập, Diệt, Đạo.
    CÁC BÀI DIỄN THUYẾT VỀ PHẬT GIÁO
    20
    Ngài thành đạo rồi, còn ngồi ở gốc cây 7 ngày nữa,
    tự nghĩ rằng: “Ta ở chỗ này thấy rõ hết thảy, không sót
    gì cả, thế là bản nguyện viên mãn rồi. Nhưng pháp
    này rất sâu, khó hiểu, chỉ có Phật với Phật mới hiểu
    rõ được mà thôi. Còn như chúng sinh vì tham dục,
    sân nhuế, ngu si và tà kiến che lấp, thì làm sao hiểu
    được pháp này? Nếu ta chuyển pháp luân,1 thì e rằng
    chúng sinh vì mê hoặc nên đã không tin theo lại còn
    phỉ báng, phải sa vào ác đạo, chịu mọi điều đau khổ.
    Chi bằng ta cứ im lặng mà vào Niết-bàn.”
    Lúc ấy Đại Phạm-thiên2 và Đế-thích3 ở trên cõi
    trời thấy ngài đã thành chánh quả, mà cứ ngồi yên
    không chuyển pháp luân, trong lòng lo buồn, liền
    xuống bạch Phật rằng: “Thế Tôn ngày xưa vì chúng
    sinh ở chỗ sanh tử, bỏ đi tu hành, chịu mọi điều khổ
    để rộng tu đức bản, đến nay thành được vô thượng
    đạo, sao ngài lại không đi thuyết pháp? Chúng sinh
    cực khổ ở chỗ tối tăm, đắm đuối trong vòng sanh tử,
    vậy xin Thế Tôn vì chúng sinh mà lấy sức đại tự tại4
    1 Chuyển pháp luân: nghĩa đen là chuyển bánh xe Pháp, tức
    là bắt đầu việc thuyết giảng giáo pháp, khiến cho Chánh
    pháp được lưu chuyển khắp nơi.
    2 Tiếng Phạn là Brahmā.
    3 Tiếng Phạn là Indra.
    4 Sức đại tự tại: sức mạnh không có sự ngăn ngại, có thể làm
    hết thảy mọi việc theo ý muốn.
    21
    PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI CUỘC NHÂN SINH
    chuyển diệu pháp luân.”1 Đế-thích cũng kêu nài, Phật
    mới thuận đi thuyết pháp.
    Song ngài còn nghĩ nên đi thuyết pháp ở đâu trước.
    Ngài nghĩ đến bọn Kiều-trần-như năm người trước đã
    theo ngài tu luyện rất cần khổ, ngài bèn đi đến độ cho
    những người ấy. Nhưng năm người ấy thấy ngài đến,
    bảo nhau rằng: “Người kia trước đã bỏ khổ hạnh, chạy
    theo cái vui thích của sự ăn uống, chắc là không có
    tâm cầu đạo. Nay lại đến đây, chúng ta đừng đứng dậy
    nghênh tiếp.” Năm người ấy bảo nhau như thế, rồi cứ
    ngồi yên, nhưng khi Phật đến nơi, năm người trông
    thấy Phật, thần thái trang nghiêm, bất giác đều đứng
    cả dậy làm lễ chào mừng.
    Phật đem Tứ thánh đế mà thuyết pháp cho bọn
    Kiều-trần-như nghe. Chữ đế (諦) có nghĩa là lời dạy
    chân thật, chân lý. Tứ thánh đế (四聖諦) là bốn lời dạy
    chân thật và thiêng liêng. Đại lược ngài nói rằng: “Khổ2
    phải nên biết, Tập3 phải nên dứt, Diệt4 phải nên chứng,
    1 Chuyển diệu pháp luân: Thuyết giảng giáo pháp rất vi diệu.
    2 Mọi sự khổ ở đời phải biết nhìn nhận đúng thật, như sanh,
    già bệnh, chết, mong cầu không được như ý, xa lìa người
    yêu dấu, gần gũi người oán hận . đều là những việc khổ,
    mà người đời không chịu nhận ra, vẫn mãi chạy theo những
    niềm vui tạm bợ để quên đi.
    3 Tập: Những nguyên nhân gây ra, dẫn đến khổ đau.
    4 Nguyên nhân gây khổ có thể trừ bỏ, nên khổ có thể được
    dứt trừ.
    CÁC BÀI DIỄN THUYẾT VỀ PHẬT GIÁO
    22
    Đạo1 phải nên tu.” Hễ đã biết được khổ, đã đoạn được
    tập, đã chứng được diệt, đã tu được đạo, thì được Tammiệu
    Tam-Bồ-đề.2 Biết khổ, đoạn tập, chứng diệt, tu
    đạo là bốn thánh đế. Hễ ai không biết bốn diệu pháp
    ấy thì không sao giải thoát được. Bởi vì bốn thánh đế
    ấy là thật, là chân: Khổ là thật có khổ, tập là thật có
    tập, diệt là thật có diệt, đạo là thật có đạo.
    Bọn Kiều-trần-như nghe lời thuyết pháp ấy đều
    xa bỏ trần cấu, được Pháp nhãn tịnh,3 bèn quy y Phật
    Pháp mà tu đạo, cắt tóc, mặc áo cà sa, thành năm vị
    sa-môn đầu tiên. Từ đó ở thế gian có đủ Tam bảo: Phật
    là Phật bảo, Tứ thánh đế pháp luân là Pháp bảo, năm
    người sa-môn đầu tiên ấy là Tăng bảo.
    Phật cùng năm vị sa-môn đi thuyết pháp các nơi,
    lấy đạo từ bi mà độ chúng sinh. Tín đồ ngày càng
    nhiều, Tăng hội mỗi ngày một thêm. Phật đặt ra quy
    tắc, chuẩn định mọi việc, tức là Giới luật. Lúc ấy lại
    có các bậc vua chúa cùng các nhà quyền quý ngoại hộ,
    cho nên đạo Phật truyền bá rất nhanh chóng và rộng
    khắp.
    1 Những phương cách để dứt trừ nguyên nhân gây đau khổ
    chính là Đạo, phải tu tập theo đó để được giải thoát.
    2 Tức là quả Phật.
    3 Pháp nhãn tịnh (法眼淨): Mắt pháp trong sạch, người được
    pháp này nhìn nhận các pháp đúng theo bản chất thật của
    chúng, không bị sai lệch.
    23
    PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI CUỘC NHÂN SINH
    Phật không phân đẳng cấp gì cả, bất cứ sang hèn,
    nghèo giàu, ai có lòng mộ đạo là Phật độ hết. Tất cả
    đệ tử của Phật được chia làm bốn chúng (Tứ chúng).
    Tỳ-kheo1 là những người đàn ông xuất gia tu hành và
    tỳ-kheo ni là những người đàn bà xuất gia tu hành.
    Tỳ-kheo và tỳ-kheo ni lập thành các Tăng hội. Mỗi
    Tăng hội có nhà tinh xá để các vị định cư trong 3 tháng
    mùa mưa, gọi là mùa an cư kiết hạ. Còn những tháng
    khác trong năm, các vị thường du phương đây đó để
    vừa khất thực độ nhật vừa giáo hóa chúng sinh. Đó gọi
    là hai chúng xuất gia.
    Ngoài ra, những người nghe Phật thuyết pháp rồi
    tin làm theo nhưng không xuất gia, vẫn sống đời sống
    thế tục với đơn giản nhưng có lòng tu đạo, được gọi
    chung là cư sĩ. Trong số này, đàn ông gọi là ưu-bà-tắc,2
    tức cư sĩ nam, đàn bà gọi là ưu-bà-di,3 tức cư sĩ nữ. Đó
    gọi là hai chúng tại gia.
    Phật đi thuyết pháp khắp nơi, khi thì ở thành Xávệ,
    4 khi thì ở thành Vương Xá,5 khi thì ở Ba-la-nại.6
    1 Tiếng Phạn là Bhikshu.
    2 Tiếng Phạn là Upasaka, tức là các vị nam cư sĩ.
    3 Tiếng Phạn là Upasaki, tức là các vị nữ cư sĩ.
    4 Tiếng Phạn là Śrāvastī.
    5 Tiếng Phạn là Rājagṛha.
    6 Tiếng Phạn là Vārāṇasī, nay là Béneres.
    CÁC BÀI DIỄN THUYẾT VỀ PHẬT GIÁO
    24
    Ngài thành đạo được sáu năm thì về Ca-tỳ-la1 là quê
    nhà để độ cho phụ vương Tịnh Phạn và các thân thuộc.
    Về sau thì ngài hay đi lại ở thành Xá-vệ, ở tinh xá
    Trúc Viên2 và núi Linh Thứu.3 Lệ cứ đến mùa mưa thì
    ở yên một chỗ,4 sang mùa nắng ráo thì lại đi thuyết
    pháp trong vùng trung lưu sông Hằng.5 Ngài đi thuyết
    pháp như thế trong 45 năm. Đến năm ngài đã ngoài
    80 tuổi, ngài đi đến chỗ có hai cây sa-la, gần thành
    Câu-thi-na,6 ở lại đó rồi diệt độ, nhập Niết-bàn. Phật
    nhập Niết-bàn nhưng Tam bảo vẫn còn ở đời để độ
    chúng sinh.
    Các đệ tử của Phật đi khắp mọi nơi để truyền bá
    đạo Phật, dần dần đạo ấy lan rộng ra khắp các nước ở
    Á Đông.
    Về sau đạo Phật chia ra nhiều tông phái, nhưng
    nhìn chung thì có hai phái lớn là Phật giáo Tiểu thừa7
    và Phật giáo Đại thừa.8
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...