Tài liệu Pháp luật về uỷ thác xuất nhập khẩu và thực tiễn pháp lý trong hoạt động uỷ thác xuất nhập khẩu tại

Thảo luận trong 'Luật Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    ĐỀ TÀI: Pháp luật về uỷ thác xuất nhập khẩu và thực tiễn pháp lý trong hoạt động uỷ thác xuất nhập khẩu tại Tổng công ty Cà phê Việt Nam

    LỜI MỞ ĐẦU

    Ngày nay xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ hơn bao giê hết. Hội nhập để cùng tồn tại và phát triển là một tất yếu khách quan của bất kỳ một nền kinh tế nào. Trong nhưng năm qua cùng với sự cố gắng của ḿnh, nước ta đang tiến nhanh đến tiến tŕnh hội nhập cùng khu vực và thế giới. Xuất nhập khẩu là một hoạt động quan trọng nhằm thúc đẩy quá tŕnh hội nhập, cũng như phát triển nền kinh tế trong nước. Nước ta có thế mạnh là các sản phẩm nông nghiệp, đây là nguồn hàng xuất khẩu chính ra thị trường nước ngoài. Cùng với các mặt hàng xuất khẩu chủ lực khác th́ Cà phê đă đóng góp không nhỏ vào kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước, góp phần nâng cao đời sống nhân dân, đặc biệt là các tỉnh miền núi nơi có các dân téc Ưt người sinh sống.
    Để đảm bảo cho hoạt động xuất nhập khẩu được tiến hành thuận lợi Nhà nước ta đă ban hành khá nhiều văn bản pháp luật nhằm điều chỉnh quan hệ này. Trong đó quy định về h́nh thức mua bán hàng hoá thông qua uỷ thác là một quy định rất qua trọng góp phần không nhỏ giúp cho các doanh nghiệp có thể tiến hành hoạt động xuất nhập khẩu của ḿnh một cách thuận lợi và có hiệu quả cao.
    Tại Tổng công ty Cà phê Việt Nam ngoài việc tự tiến hành các hoạt động xuất nhập khẩu cho chính công ty th́ Tổng công ty c̣n thực hiện thêm nghiệp vụ nhận uỷ thác của các doanh nghiệp khác để tiến hành các hoạt động xuất nhập khẩu trong phạm vi kinh doanh của Tổng công ty.
    Sau quá tŕnh thực tập tại Tổng công ty Cà phê Việt Nam, với mong muốn t́m hiểu thêm các quy định của pháp luật điều chỉnh quan hệ xuất nhập khẩu hàng hoá và uỷ thác xuất nhập khẩu hàng hoá, kƠt hợp với thực tiễn áp dụng các quy định trên tại Tổng công ty Cà phê Việt Nam, qua đó đánh giá về vấn đề áp dụng luật pháp trong kinh doanh, nhằm nâng cao thêm về thực tiễn của những kiến thức đă học.
    V́ vậy tôi chọn đề tài “Pháp luật về uỷ thác xuất nhập khẩu và thực tiễn pháp lư trong hoạt động uỷ thác xuất nhập khẩu tại Tổng công ty Cà phê Việt Nam làm đề tài nghiên cứu báo cáo thực tập chuyên ngành.
    Trên cơ sở khảo sát, t́m hiểu các vấn đề lư luận, các văn bản pháp luật liên quan, kết hợp với việc t́m hiểu thực tế áp dụng các văn bản đó tại Tổng công ty Cà phê Việt Nam, đề tài được chia thành các phần sau:
    Phần I: Chế độ pháp lư về xuất nhập khẩu và uỷ thác xuất nhập khẩu;
    Phần II: Thực tiễn áp dụng các chế độ uỷ thác xuất nhập khẩu tại Tổng công ty Cà phê Việt Nam.;
    Phân III: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hoạt động nhận uỷ thác xuất nhập khẩu tại Tổng công ty Cà phê Việt Nam;
    Đề tài này được hoàn thành với sự giúp đỡ tận t́nh của thầy giáo Phạm Văn Luyện và các cô chú trong Tổng công ty Cà phê Việt Nam.
    Tôi xin chân thành cảm ơn thầy giáo Phạm Văn Luyện và các cô chú trong Tổng công ty đă tận t́nh chỉ bảo tôi trong suốt thời gian thực tập.





    PHẦN I
    CHẾ ĐỘ PHÁP LƯ VỀ XUẤT NHẬP KHẨU
    VÀ UỶ THÁC XUẤT NHẬP KHẨU

    I. HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU VÀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU.
    1.Vị trí, vai tṛ của hoạt động xuất nhập khẩu đối với vấn đề phát triển kinh tế đất nước.
    1.1.Khái niệm xuất nhập khẩu.
    Từ xa xưa, việc trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia đă diễn ra nh­ mét nhu cầu tất yếu khách quan. Tới thế kỷ 15- 16 th́ việc buôn bán giữa các quốc gia đă khá phát triển và cho đến nay th́ hoạt động này đă diễn ra liên tục, ngày càng trở nên sôi động. Hoạt động mua bán, trao đổi hàng hoá vượt ra khỏi phạm vi biên giới một quốc gia như vậy được gọi là hoạt động ngoại thương hay c̣n gọi là hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, đó là một ngành kinh tế thực hiện chức năng lưu thông hàng hoá giữa thị trường trong nước và nước ngoài, hoạt động trao đổi hàng hoá ở phạm vi quốc tế. Khoản1 Điều2 Nghị định 57/1998/NĐ- CP ngày 31/7/1998 quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, gia công và đại lư mua bán hàng hoá với nước ngoài định nghĩa như sau: “hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá là hoạt động mua, bán hàng hoá của thương nhân Việt Nam với thương nhân nước ngoài theo các hợp đồng mua bán hàng hoá, bao gồm cả hoạt động tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập và chuyển khẩu hàng hoá”. Xuất nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ không phải là những hành vi buôn bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ mua bán trong thương mại có tổ chức từ bên trong ra bên ngoài nhằm thúc đẩy sự phát triển sản xuất hàng hoá, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, ổn định và từng bước nâng cao mức sống nhân dân.
    Hoạt động xuất khẩu là việc bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ với người nước ngoài nhằm thu ngoại tệ (theo nguyên tắc thương mại đó là lợi thế so sánh) tăng tích luỹ cho Ngân sách Nhà nước, phát triển sản xuất kinh doanh, khai thác những ưu thế tiềm năng của đất nước. Đây là mội trong những h́nh thức kinh doanh quốc tế quan trọng nhất, nó phản ánh quan hệ mua bán, trao đổi hàng hoá vượt qua biên giới của một quốc gia, giữa thị trường nội địa với các khu chế xuất. Các quốc gia khác nhau khi tham gia vào các hoạt động thương mại th́ phải tuân theo các quy định của pháp luật và thông lệ quốc tế, c̣ng nh­ các tập quán của địa phương. Hoạt động xuất khẩu được đánh giá là hoạt động kinh tế quốc tế cơ bản đối với tất cả các quốc gia trên thế giới. Hoạt động xuất khẩu phản ánh mối quan hệ xă hội và sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hoá riêng biệt ở mỗi quốc gia. Hoạt động này cũng là chiếc ch́a khoá mở ra con đường thâm nhập phát triển thị trường của một quốc gia trên thương trường quốc tế.
    Hoạt động nhập khẩu là việc mua các hàng hoá, dịch vụ từ nước ngoài về trong nước nhằm phục vụ cho đời sống, sản xuất trong nước, bổ sung những thiếu hụt mà nền sản xuất trong nước chưa thể đáp ứng được. Không có một quốc gia nào có thể tồn tại riêng biệt với các quốc gia khác mà phát triển bởi v́ ở mỗi quốc gia th́ có các lợi thế khác nhau về tài nguyên, công nghệ . Hoạt động nhập khẩu có tác dụng to lớn trong việc đưa nền kinh tế trong nước hội nhập nền kinh tế thế giới, bắt kịp sự phát triển của khoa học công nghệ hiện đại.
    1.2.Vai tṛ của hoạt động xuất nhập khẩu đối với nền kinh tế và doanh nghiệp.
    Hoạt động xuất nhập khẩu có ư nghĩa vô cùng quan trọng trong nền kinh tế mỗi quốc gia. Để thúc đẩy nền sản xuất trong nước phát triển, các quốc gia đưa ra những điều kiện thuận lợi để khuyến khích xuất khẩu, tạo điều kiện mở rộng thị trường, mở rộng nhu cầu thị hiếu, từ đó kích thích nâng cao chất lượng sản phẩm, thu được nhiều ngoại tệ, thu hót vốn đầu tư, tăng thu nhập quốc dân. Một quốc gia có kim ngạch xuất khảu cao là một quốc gia có nhiều tiềm năng phát triển kinh tế. Đi đôi với hoạt động xuất khẩu, hoạt động nhập khẩu cũng giữ vai tṛ quan trọng không kém. Nhập khẩu giúp cho việc thoả măn các nhu cầu của người tiêu dùng và nền sản xuất trong nước, thu hót khoa học kỹ thuật tiến tiến, tạo ra một môi trường cạnh tranh giữa những nhà kinh doanh trong nước với những nhà kinh doanh nức ngoài từ đó nâng cao chất lượng cạnh tranh của hàng nội. Nh́n chung, xuất khẩu và nhập khẩu là hai mặt của một quá tŕnh, chúng không thể bị tách rời.
    Ngay trong báo cáo chính trị Đại hội Đảng VI, Đảng và Nhà nước ta đă ghi nhận vị trí quan trọng hàng đầu của hoạt động xuất nhập khẩu trong kinh tế đối ngoại “Trong toàn bộ công tác kinh tế đối ngoại, khâu quan trong nhất là đẩy mạnh xuất khẩu để đáp ứng nhu cầu nhập khẩu”. Thông qua hoạt động ngoại thương, chúng ta có thể thực hiện được các mục tiêu kinh tế, xă hội đă đề ra.
    Chóng ta đang trong giai đoạn đầu của quá tŕnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH-HĐH) cơ sở vật chất c̣n yếu kém, không đồng bộ, bên cạnh đó dân số lại đông và phát triển nhanh nên việc đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu sẽ góp phần giải quyết vấn đề việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, nâng cao tŕnh độ khoa học kỹ thuật, thúc đẩy kinh tế phát triển. Đây được coi là vấn đề có ư nghĩa chiến lược trong việc phát triển kinh tế đất nước.
    Đi đôi với hoạt động xuất khẩu th́ hoạt động nhập khẩu cũng chiếm vị trí quan trọng không kém; nước ta c̣n rất lạc hậu so với thế giới về công nghệ, khoa học kỹ thuật do đó nhập khẩu là một nhu cầu không thể thiếu để nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống cũng như tŕnh độ sản xuất trong nước.
    Hoạt động xuất khẩu sẽ tạo cơ sở cho hoạt động nhập khẩu phát triển và ngược lại. Xuất khẩu sẽ làm tăng ngân sách nhà nước về ngoại tệ, thanh toán nợ nước ngoài Thực tế trong những năm qua xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam giữ vai tṛ quan trọng tạo điều kiện cho việc dần dần thanh toán nợ nước ngoài, h́nh thành nhiều ngành sản xuất, nhiều đơn vị sản xuất mới. Trong khi đó nước ta lại được đánh giá là một nước có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và nguồn lao động dồi dào. Do vậy, đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu tức là chúng ta đă phát huy lợi thế này của ḿnh.
    Thông qua hoạt động xuất nhập khẩu chúng ta sẽ có khả năng phát huy được lợi thế so sánh, sử dụng triệt để các nguồn lực, có điều kiện trao đổi học hỏi kinh nghiệm cũng như tiếp cận được với các thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến trên thế giới. Qua đó, áp dụng vào nền sản xuất trong nước tạo ra các sản phẩm có chất lượng cao để rồi lại xuất khẩu ra nước ngoài và phục vụ đời sống nhân dân. Đặc biệt đối với hoạt động xuất khẩu c̣n góp phần vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo nhu cầu của thị trường nước ngoài là thị trường mà hiện nay các nền kinh tế luôn hướng tới, từ đó tạo ra công ăn việc làm tăng thu nhập cho người lao động, cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện cả hai mục tiêu phát triển đất nước và công bằng xă hội, tăng cường hợp tác, năng cao uy tín của Việt Nam trên thị trường quốc tế.
    Đối với các doanh nghiệp th́ hoạt động xuất nhập khẩu là hoạt động không thể thiếu để mở rộng sản xuất và phát triển. Nó cung cấp trang thiết bị, vật tư, công nghệ cho doanh nghiệp, cung cấp thị trường cho hàng hoá của doanh nghiệp với lợi nhuận thường là nhiều hơn với thị trường trong nước. Bên cạnh đó, doanh nghiệp c̣n có thể đào tạo, nâng cao tŕnh độ cho cán bộ, tiếp thu kinh nghiệm quản lư, kiến thức kinh doanh từ các hoạt động này.
    Hoạt động xuất nhập khẩu ngày càng có ư nghĩa rất quan trọng trong nền kinh tế cũng như doanh nghiệp khi xu hướng quan hệ quốc tế ngày càng mở rộng và hoà nhập, là con đường để chúng ta phát huy khả năng và tận dụng hiệu quả nguồn tài nguyên và ưu thế trong nước, tiếp thu kiến thức từ bên ngoài vào phát triển Đất nước nhất là trong giai đoạn hiện nay, giai đoạn Công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
    1.3. Các h́nh thức xuất nhập khẩu
    Hoạt động xuất nhập khẩu là một lĩnh vực hoạt động tương đối rộng, bao gồm nhiều h́nh thức, phương thức khác nhau:
    1.3.1 Xuất nhập khẩu trực tiếp.
    Xuất nhập khẩu trực tiếp là việc nhà sản xuất trực tiếp tiến hành các giao dịch với khách hàng nước ngoài thông qua các tổ chức của ḿnh. H́nh thức này được áp dụng khi nhà sản xuất đủ mạnh để tiến tới thành lập các tổ chức bán hàng riêng của ḿnh và kiểm soát trực tiếp thị trường. Tuy rủi ro kinh doanh có tăng lên song nhà sản xuất lại có cơ hội để nâng cao lợi nhuận nhờ giảm bớt các chi phí trung gian và nắm bắt kịp thời những biến động về thông tin thị trường để có biện pháp đối phó kịp thời. Xuất khẩu trực tiếp cũng có thể là nhà xuất khẩu mua các hàng hoá tư các doanh nghiệp sản xuất trong nước sau đó xuất khẩu các sản phẩm này ra nước ngoài với danh nghĩa là hàng của ḿnh thông qua các tổ chức của ḿnh.
    1.3.2 Xuất khẩu gia công uỷ thác.
    Với h́nh thức này các doanh nghiệp kinh doanh hàng xuất khẩu đứng ra nhập nguyên liệu hoặc bán thành phẩm cho các doanh nghiệp gia công sau đó thu hồi thành phẩm xuất lại cho bên nước ngoài, doanh nghiệp sẽ đước nhận phí uỷ thác theo thảo thuận với các doanh nghiệp trực tiếp chế biến.
    1.3.3 Xuất nhập khẩu uỷ thác.
    Xuất khẩu uỷ thác được áp dụng trong trường hợp một doanh nghiệp có hàng hoá muốn xuất, nhập khẩu nhưng không trực tiếp tham gia vào hoạt động xuất, nhập khẩu hoặc không có điều kiện để tham gia. Khi đó họ sẽ uỷ thác cho doanh nghiệp kinh doanh hàng hoá xuất nhập khẩu làm dịch vụ xuất nhập khẩu cho ḿnh. Bên nhận uỷ thác sẽ được thu phí uỷ thác theo hợp đồng uỷ thác.
    Trong t́nh h́nh hiện nay, khi các chủ thể tham gia vào thương trường ngày càng gia tăng, các loại hàng hoá dịch vụ ngày càng đa dạng, phong phú th́ xuất nhập khẩu uỷ thác lại càng là h́nh thức xuất nhập khẩu được áp dụng nhiều. Bởi lẽ nó có tác dụng giúp các doanh nghiệp xuất khẩu được hàng hoá với giá cao, thu hồi vốn nhanh hoặc nhập khẩu hàng theo đúng nhu cầu mà giá cả lại phải chăng v́ những người thực hiện các hoạt động này thường là những người dày dạn kinh ghiệm trong hoạt động xuất nhập khâủ, am hiểu thị trường.
    Ngoài ra c̣n có các h́nh thức khác như: xuất khẩu tại chỗ, tạm nhập tái xuất đều là các h́nh thức mang lại hiệu quả cao và tiện lợi.
    2. Pháp luật điều chỉnh hoạt động xuất nhập khẩu.
    Pháp luật điều chỉnh hoạt động xuất, nhập khẩu là toàn bộ các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xă hội phát sinh trong lĩnh vực xuất nhập khẩu.
    2.1 Sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động xuất nhập khẩu:
    Về mặt lư luận, các nhà kinh tế thừa đă nhận rằng “ các nền kinh tế hiện đại muốn phát triển th́ phải dùa vào cơ chế thị trường c̣ng nh­ sù quản lư của nhà nước”. Nhà nước quản lư mọi lĩnh vực của nền kinh tế bằng nhiều công cụ, biện pháp, trong đó pháp luật được coi là công cụ hữu hiệu nhất. Nếu pháp luật phản ánh đúng và phù hơp với sự phát triển của các quan hệ kinh tế th́ nó sẽ có tác dụng tạo điều kiện thuận lợi, định hướng cho các quan hệ đó phát triển theo các mục tiêu đề ra. Ngược lại, nếu pháp luật không phù hợp với các quan hệ kinh tế th́ nó sẽ làm ḱm hăm sự phát triển của nền kinh tế. Khi các hoạt động xuất nhập khẩu mới ra đời, do tính chất là các hoạt động kinh doanh vượt ra khỏi phạm vi biên giới một quốc gia nên nó được điều chỉnh chủ yếu bởi các tập quán thương mại quốc tế. Nhưng các tập quán này cũng là chưa đủ, nhà nước phải kịp thời ban hành pháp luật điều chỉnh và định hướng các hoạt động đó sao cho đảm bảo được môi trường kinh doanh ổn định, lành mạnh. Đồng thời các Điều ước quốc tế về lĩnh vực này cũng dần dần được ra đời là các Điều ước quốc tế song phương, khu vực hoặc toàn cầu.
    2.2 Về nguồn luật điều chỉnh hoạt động xuất nhập khẩu ở Việt Nam:
    Trước tiên phải kể đến là các Điều ước quốc tế về lĩnh vực xuất nhập khẩu mà Việt Nam đă kư kết, tham gia hoặc công nhận. Các Điều ước quốc tế có tính chất chỉ đạo, điều chỉnh gián tiếp các hoạt động ngoại thương. Các điều ước quốc tế bao gồm: các điều ước đa phương, song phương, công ước, hiệp ước, hiệp định .
    Các điều ước quốc tế đa phương là điều ước quốc tế do từ ba quốc gia trở lên kư kết hoặc công nhận, tham gia, hiện nay chóng ta đă tham gia kư kết khá nhiều điều ước đa phương ví dụ như hiệp ước đa phương về hợp tác kinh tế chính trị giữa các quốc gia Đông Nam Á ( ASEAN), APEC, đây là nguồn luật rất quan trọng điều chỉnh quan hệ quốc tế của Việt Nam trong đó có quan hệ quốc tế về kinh tế, ngoại thương và cụ thể là hoạt động xuất nhập khẩu. Nước ta cũng đang cố gắng để có thể gia nhập tổ chức thương mại quốc tế WTO trong thời gian tới v́ đầy là tổ chức quan trọng nhất cần phải tham gia để có thể hoạt động thương mại quốc tế một cách thuận lợi.
    Tiếp theo trong nguồn các điều ước quốc tế là các công ước mà Việt Nam đă kư kết hoặc tham gia. Hiện nay trong quan hệ thương mại quốc tế các công ước là rất quan trọng, do hiện tượng xung đột luật giữa các quốc gia với nhau nên nguồn luật quốc tế trở nên rất quan trọng trong quan hệ kinh tế quốc tế. ví dụ như hiện nay Công ước Viên 1980 được rất nhiều nước tham gia, đây là nguồn luật cơ bản điều chỉnh hoạt động mua bán hàng hoá giữa các quốc gia trên thế giới, nó chỉ rơ các quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ ngoại thương.
    Các hiệp định song phương giữa các quốc gia là nguồn luật không thể thiếu trong quan hệ thương mại quốc tế. Nó điều chỉnh trực tiếp quan hệ mua bán hàng hoá giữa hai quốc gia kư kết. Hiện nay chóng ta đă kư kết được khá nhiều các hiệp định thương mại song phương mà đặc biệt là hiệp định thương mại Việt – Mỹ, kư ngày 13 thàng 7 năm 2000, đây là một hiệp định song phương giữa ta và Mỹ, trong các Điều ước quốc tế này đă chỉ ra những nguyên tắc cơ bản như nguyên tắc tối huệ quốc, nguyên tắc có đi có lại, nguyên tắc đăi ngộ quốc gia
    Nguồn luật thứ hai là các tập quán thương mại quốc tế: Theo quy định tại Luật Thương mại Việt nam năm 1997 th́ được áp dụng tập quán quốc tế nếu nh­ nă không trái với pháp luật Việt nam. Đó là những thăi quen thương mại phổ biến, có nội dung rơ ràng, cụ thể mà dùa vào đó có thể xác định được quyền và nghĩa vụ của các bên, được áp dụng thường xuyên lặp đi lặp lại trong một thời gian dài được nhiều nước công nhận.
    Trong quan hệ kinh tế quốc tế hiện này th́ một trong những tập quán quốc tế quan trọng nhất đă được tập hợp lại đó là tập quán trong vận chuyển hnàg hoá quốc tế Incoterm
    Thứ ba là luật quốc gia: ở Việt Nam, do hệ thống pháp luật nước ta là hệ thống pháp luật thành văn nên hoạt động xuất nhập khẩu được điều chỉnh bởi các quy định liên quan trong Hiến pháp, các Luật và các văn bản dưới luật. Kể từ khi chuyển sang nền kinh tế theo cơ chế mới cho đến trước khi Luật Thương mại được ban hành và có hiệu lực kể từ ngày 01/01/1998 th́ hoạt động xuất nhập khẩu chịu sự điều chỉnh của một số văn bản như: Thông tư số 03-BNT/XNK ngày 11/01/1984 về uỷ thác xuất nhập khẩu, Quyết định số 91-TTg ngày 13/11/1992 của Thủ tướng Chính phủ về quản lư nhập khẩu bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước, Nghị định 33/1994/NĐ-CP ngày 19/04/1994 về quản lư nhà nước đối với hoạt động xuất nhập khẩu, Nghị định 89/1995/NĐ-CP ngày 15/12/1995 về việc băi bỏ thủ tục cấp giấy phép xuất nhập khẩu từng chuyến, Quyết định 864/1995/TTg ngày 30/12/1995 về chính sách mặt hàng và điều hành công tác xuất nhập khẩu năm 1996, Tuy nhiên đây mới chỉ là các văn bản dưới luật, có giá trị hiệu lực thấp. Kể từ khi Luật Thương mại ra đời tuy mới chỉ có quy định về hợp đồng mua bán hàng hoá với thương nhân nước ngoài và uỷ thác mua bán hàng hoá nhưng kéo theo nó là một số văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành có quy định về hoạt động xuất nhập khẩu như Nghị định 57/1998/NĐ-CP ngày 31/7/1998 quy định chi tiết Luật thương mại về xuất khẩu, nhập khẩu, gia công và đại lư mua bán hàng hoá với nước ngoài, Thông tư 18/1998/TT-BTM ngày 28/8/1998 hướng dẫn thi hành Nghị định 57/1998/NĐ-CP, Nghị định 44/2001/NĐ-CP ngày 02/8/2001 về việc sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định 57/1998/NĐ-CP. Luật của Quốc hội số 29/2001/QH10 về Hải quan, Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có hiệu lực kể từ ngày 01/03/1992, Thông tư số 108/2001/TT- BTC ngày 31/12/2001 hướng dẫn kế toán hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu uỷ thác
    II. CHẾ ĐỘ PHÁP LƯ VỀ UỶ THÁC XUẤT NHẬP KHẨU
    1. Ư nghĩa của uỷ thác xuất nhập khẩu trong hoạt động xuất nhập khẩu nói chung:
    Trong nền kinh tế quản lư theo cơ chế c̣ ( cơ chế kế hoạch hoá tập trung) th́ chỉ có doanh nghiệp nhà nước được tiến hành các hoạt động xuất nhập khẩu do đó hoạt động uỷ thác xuất nhập khẩu chỉ tồn tại trong mối quan hệ giữa các doanh nghiệp này. Chuyển sang nền kinh tế theo cơ chế mới (cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước) th́ phạm vi các chủ thể được phép xuất nhập khẩu được mở rộng dần và cho đến nay th́ mọi thương nhân là doanh nghiệp có giấy chứng nhận đăng kư kinh doanh và có đăng kư mă số doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu đều được tiến hành hoạt động xuất nhập khẩu. Tuy nhiên că thể thấy rằng không phải tất cả các chủ thể kinh doanh đều có khả năng thực hiện hoạt động xuất, nhập khẩu. Nguyên nhân có thể do lượng vốn Ưt, không đủ để tổ chức thị trường, tŕnh độ nhân lực về xuất nhập khẩu không cao Trong khi đó những người thực hiện hoạt động nhận uỷ thác xuất nhập khẩu lại là những người có kỹ năng nghề nghiệp trong công tác xuất nhập khẩu, am hiểu các thủ tục cần thiết cũng như các thị trường nước ngoài. Đó là những nguyên nhân khiến cho hoạt động uỷ thác xuất nhập khẩu không thể không tồn tại trong nền kinh tế.
    Nhờ có uỷ thác xuất nhập khẩu mà hoạt động xuất nhập khẩu được đẩy mạnh bởi hoạt động uỷ thác xuất nhập khẩu chiếm một tỷ trọng khá cao trong tổng giá trị kim ngạch xuất nhập khẩu( chiếm 23% doanh thu của Tổng công ty ) . Bằng phương thức xuất nhập khẩu uỷ thác mà có thể kích thích, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xuất khẩu c̣ng nh­ nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ. Nếu không có uỷ thác xuất nhập khẩu th́ khối lượng hàng hoá lưu thông qua biên giới sẽ giảm đi rất nhiều. Đây là điều dễ thấy thông qua việc phân tích nguyên nhân phải tồn tại hoạt động uỷ thác xuất nhập khẩu như trên đă nêu.
    2. Pháp luật điều chỉnh hoạt động uỷ thác xuất nhập khẩu
    Hoạt động uỷ thác xuất nhập khẩu thực chất là một loại h́nh cụ thể của dịch vụ trung gian thương mại là uỷ thác mua bán hàng hoá, đồng thời xét ở góc độ công tác xuất nhập khẩu th́ nó lại là một phương thức xuất nhập khẩu hàng hoá. Do đó hoạt động này phải chịu sự điều chỉnh của các quy định của Pháp luật Thương mại về uỷ thác mua bán hàng hoá và các quy định về xuất nhập khẩu được quy định trong Luật hải quan, Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và hàng loạt các văn bản khác như đă nêu. Các quy định của Luật Thương mại về hợp đồng mua bán hàng hoá với thương nhân nước ngoài và uỷ thác mua bán hàng hoá (Từ Điều 99 đến Điều110) và các quy định về uỷ thác xuất nhập khẩu cũng như hoạt động xuất nhập khẩu mặc dù vẫn c̣n tồn tại những bất cập nhưng cũng đă tạo nên hành lang pháp lư cho sự tồn tại và phát triển của hoạt động uỷ thác xuất nhập khẩu. Cùng với sự phát triển của hoạt động ngoại thương th́ các hoạt động uỷ thác xuất nhập khẩu đang ngày càng có xu hướng được đẩy mạnh.
    Theo Điều 99 Luật Thương mại năm 1997 th́ ủy thác mua bán hàng hoá là hành vi thương mại, theo đó bên uỷ thác thực hiện nghĩa vụ mua hàng hoá với danh nghĩa của ḿnh theo những điều kiện đă thỏa thuận với bên uỷ thác và được nhận phí uỷ thác.
    Trong quan hệ uỷ thác th́ bao gồm bên được uỷ thác và bên uỷ thác.
    Bên được uỷ thác theo Điều 100 Luật thương mại: bên được uỷ thác mua bán hàng hoá là thương nhận kinh doanh những mặt hàng phù hợp với hàng hoá được uỷ thác và thực hiện mua bán hàng hoá theo những điều kiện đă thoả thuận với bên uỷ thác.
    Bên uỷ thác theo Điều 101 Luật Thương mại: bên uỷ thác mua bán hàng hoá là thương nhận hoặc không phải là thương nhận giao cho bên được uỷ thác thực hiện mua bán hàng hoá theo yêu cầu của ḿnh và phải trả phí ủy thác.
    Các bên có những quyền và nghĩa vụ theo quy định của các điều từ Điều 108 đến 110 của luật Thương mại.
    Tuy nhiên hoạt động uỷ thác xuất nhập khẩu nhập khẩu th́ ngoài nững quy định trong Luật Thương mại c̣n có các quy định cụ thể trong Nghị định 57/1998/NĐ-CP ngày31 tháng 7 năm 1998 quy định chi tiết Luật Thương mại vễ xuất khẩu, nhập khẩu, gia công, đại lư mua bán hàng hoá với nước ngoài. Cô thể tại Điều 9 như sau:
    1. Thương nhân có giấy chứng nhận đăng kư kinh doanh hoặc đă đăng kư mă số doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu được ủy thác xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá phù hợp với nội dung của giấy chứng nhận đăng kư kinh doanh.
    2. Thương nhân đă đăng kư mă số doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu được nhận ủy thác xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá phù hợp với nội dung giấy chứng nhận đăng kư kinh doanh.
    3. Việc ủy thác xuất khẩu, nhập khẩu và việc nhận ủy thác xuất khẩu, nhập khẩu các mặt hàng xuất khẩu, nhập khẩu có điều kiện do Bộ Thương mại hướng dẫn cụ thể.
    4. Nghĩa vụ và trách nhiệm của bên ủy thác xuất khẩu, nhập khẩu và bên nhận ủy thác xuất khẩu, nhập khẩu được quy định cụ thể trong hợp đồng ủy thác xuất khẩu, nhập khẩu do các bên tham gia kư kết thỏa thuận.
    III. KƯ KẾT VÀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG UỶ THÁC XUẤT NHẬP KHẨU:
    1. Khái niệm, đặc điểm của hợp đồng uỷ thác xuất nhập khẩu::
    Hợp đồng uỷ thác xuất nhập khẩu là sự thoả thuận giữa các bên theo đó bên được uỷ thác có nghĩa vụ thực hiện việc xuất hoặc nhập khẩu hàng hoá theo sự uỷ thác của bên uỷ thác c̣n bên uỷ thác có nghĩa vụ trả thù lao cho bên được uỷ thác.
    Về bản chất pháp lư, hợp đồng uỷ thác xuất nhập khẩu thực chất là hợp đồng kinh tế,nă là một dạng của hợp đồng dịch vụ, là hợp đồng song vô, mang tính chất đền bù và là hợp đồng ưng thuận. Hợp đồng uỷ thác xuất nhập khẩu được coi là h́nh thành và có hiệu lực pháp luật khi các bên đă kư vào văn bản hoặc khi đă nhận được các tài liệu giao dịch thể hiện sự thoả thuận về tất cả cá điều khoản chủ yếu của hợp đồng.
    Hợp đồng uỷ thác xuất nhập khẩu có những đặc điểm sau:
    Về chủ thể của hợp đồng: Chủ thể của hợp đồng uỷ thác xuất nhập khẩu bao gồm bên uỷ thác và bên được uỷ thác. Theo quy định tại Nghị định 57/1998/NĐ-CP ngày 31/7/1998 quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, gia công và đại lư mua bán hàng hoá với nước ngoài và Nghị định 44/2001/NĐ-CP ngày 02/8/2001 sửâ đổi một số điều của nghị định 57/1998/NĐ-CP các chủ thể được phép nhận uỷ thác xuất nhập khẩu bao gồm: Thương nhân thuộc các thành phần kinh tế được thành lập theo quy định của pháp luật và chi nhánh của thương nhân được sự uỷ quyền của thương nhân. Các chủ thể được nhận uỷ thác th́ cũng được uỷ thác xuất nhập khẩu.Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các bên hợp doanh và chi nhánh thương nhân nước ngoài cũng được uỷ thác xuất nhập khẩu.
    Đối tượng của hợp đồng uỷ thác xuất nhập khẩu chính là hành vi xuất nhập khẩu hàng hoá của bên được uỷ thác.
    Hợp đồng uỷ thác xuất nhập khẩu là một loại hợp đồng dịch vụ uỷ thác mua bán hàng hoá do đó nó phải có những điều khoản chủ yếu mà Luật Thương mại quy định cần có đối với hợp đồng uỷ thác mua bán hoàng hoá để được coi là hợp đồng đă h́nh thành. Theo quy định tại Điều 104 Luật Thương mại th́ những nội dung đó bao gồm:
    - Tên , địa chỉ của các bên ;
    - Hàng hoá được uỷ thác mua bán;
    - Số lượng, chất lượng, quy cách, giá cả và các điều kiện cụ thể khác;
    - Phí uỷ thác;
    - Thời hạn hiệu lực của hợp đồng uỷ thác.
    Hàng hoá được uỷ thác xuất nhập khẩu là tất cả các loại hàng hoá trừ hàng hoá cấm xuất nhập khẩu và một số hàng hoá do Bộ Thương mại quy định trong từng thời kỳ. Đối với hàng hoá thuộc Danh mục hàng hoá hạn chế kinh doanh, hàng hoá xuất nhập khẩu có điều kiện th́ doanh nghiệp đó phải thoả măn tất cả các điều kiện theo quy định của pháp luật.
    Số lượng, chất lượng, quy cách, giá cả của hàng hoá cũng là một trong những nội dung chủ yếu của hợp đồng uỷ thác xuất nhập khẩu. Số lượng hàng hoá có thể được xác định theo những đơn vị đo khối lượng, trọng lượng, chất lượng của hàng hoá được nêu cụ thể trong hợp đồng hoặc dẫn theo một tiêu chuẩn nhất định.
    Phí uỷ thác được xác định là một khoản tiền nhất định hoặc theo một tỷ lệ % xác định trên tổng giá trị hợp đồng mà bên được uỷ thác sẽ kư kết với bên thứ ba để xuất hoặc nhập hàng hoá.
    Ngoài những nội dung trên, các bên trong hợp đồng uỷ thác xuất nhập khẩu c̣n có thể thoả thuận những nội dung khác như các vấn đề liên quan đến thanh toán, thời gian và địa điểm giao hàng, trách nhiệm của các bên, điều khoản về giải quyết khiếu nại, tranh chấp, phạt vi phạm hợp đồng .
    Theo Pháp lệnh hợp đồng kinh tế th́ h́nh thức của hợp đồng phải bằng văn bản, tài liệu giao dịch: công văn, điện báo, đơn đặt hàng, đơn chào hàng. Theo khoản 2 Điều 104 th́ hợp đồng uỷ thác phải được thể hiện bằng h́nh thức văn bản. H́nh thức văn bản được hiểu theo nghĩa thông thường hay c̣n bao hàm cả điện báo, telex, fax, thư điện tử và các h́nh thức thông tin điện tử như quy định đối với h́nh thức văn bản trong hợp đồng mua bán hàng hoá nêu trên hay không th́ luật không chỉ rơ nhưng hiện nay trên thực tế vẫn áp dụng h́nh thức văn bản theo nghĩa rộng
    Hợp đồng uỷ thác xuất nhập khẩu luôn có mục đích kinh doanh.Bên nhận uỷ thác khi thực hiện hành vi xuất, nhập khẩu th́ luôn hướng tới khoản thù lao sẽ được hưởng là phí uỷ thác.
    Thay đổi, tạm hoăn thực hiện hợp đồng uỷ thác xuất nhập khẩu : Theo pháp lệnh hợp đồng kinh tế th́ việc thay đổi, tạm hoăn thực hiện hợp đồng uỷ thác xuất nhập khẩu phải được các bên thoả thuận và thể hiện bằng văn bản ( Điều24)
    Các trường hợp chấm dứt hợp đồng uỷ thác xuất nhập khẩu được xác định như sau: Các trường hợp chấm dứt hợp đồng theo ư chí của hai bên hoặc do điều kiện khách quan và đơn phương chấm dứt hợp đồng được xác định theo quy định từ Điều 24 đến Điều 28 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế
    Luật thương mại không có quy định về hợp đồng uỷ thác mua bán hàng hoá do đó việc xác định hợp đồng uỷ thác xuất nhập khẩu vô hiệu phải căn cứ vào các quy định của Pháp lệnh hợp đồng kinh tế nh­ sau:
    “ 1- Những hợp đồng kinh tế sau đây bị coi là vô hiệu toàn bộ:
    a) Nội dung hợp đồng kinh tế vi phạm điều cấm của pháp luật;
    b) Mét trong các bên kư kết hợp đồng kinh tế không có đăng kư kinh doanh theo quy định của pháp luật để thực hiện công việc đă thoả thuận trong hợp đồng;
    c) Người kư hợp đồng kinh tế không đúng thẩm quyền hoặc có hành vi lừa đảo.
    2- Hợp đồng kinh tế bị coi là vô hiệu từng phần khi nội dung của phần đó vi phạm điều cấm của pháp luật, nhưng không ảnh hưởng đến nội dung các phần c̣n lại của hợp đồng”

    2. Kư kết hợp đồng uỷ thác xuất nhập khẩu:
    2.1. Các nguyên tắc kư kết hợp đồng uỷ thác xuất nhập khẩu:
    Hợp đồng uỷ thác xuất nhập khẩu là một dạng của hợp đồng uỷ thác mua bán hàng hoá trong thương mại, tuy nhiên Luật Thương mại lại không hề có quy định về các nguyên tắc kư kết hợp đồng uỷ thác mua bán hàng hoá nói riêng và hợp đồng thương mại nói chung. Nhưng hợp đồng uỷ thác xuất nhập khẩu mang tính chất là hợp đồng kinh tê do đó khi kư kết hợp đồng uỷ thác xuất nhập phải tuân thủ các nguyên tắc kư kết hợp đồng kinh tế được quy định tại Pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1998. Đó là nguyên tắc sau: nguyên tắc tự nguyện, cùng có lợi, b́nh đẳng về quyền và nghĩa vụ, trực tiếp chịu trách nhiệm tài sản và không trái pháp luật.
     
Đang tải...