Tiểu Luận pháp luật về hoạt động của ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán Việt Nam

Thảo luận trong 'Chứng Khoán' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    172
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    MỤC LỤC

    A. LỜI MỞ ĐẦU .3
    B. NỘI DUNG .4
    I. KQC về Ngân hàng Thương mại và Thị Trường chứng khoán. 4
    1. Thị trường chứng khoán và hoạt động của thị trường chứng khoán. 4
    1.1. Khái niệm thị trường chứng khoán. 4
    1.2. Hoạt động của thị trường chứng khoán. 5
    2. Hoạt động của ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán. 6
    2.1 Các mô hình hoạt động của ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán.6
    2.1.1 Trên thị trường sơ cấp (primary market):6
    2.1.2 Trên thị trường thứ cấp (secondary market):7
    2.2 Các nghiệp vụ của ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán 9
    2.2.1 Ngân hàng là nhân tố góp phần thúc đẩy quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước và hình thành các công ty cổ phần.9
    2.2.2 Ngân hàng giúp các Công ty phát hành chứng khoán trên thị trường chứng khoán sơ cấp.9
    2.2.3 Ngân hàng làm trung gian mua bán chứng khoán ở thị trường thứ cấp.10
    2.2.4 Cung cấp các dịch vụ lưu giữ và quản lý chứng khoán cho khách hàng. Dịch vụ này được thực hiện theo hai cách.10
    2.2.5 Thực hiện việc thanh toán các chứng khoán.11
    2.2.6 Công tác thanh toán bù trừ. 12
    2.2.7 Tư vấn về phát hành và mua bán chứng khoán. 13
    3. Mối quan hệ giữa hoạt động của NHTM và hoạt động của thi trường chứng khoán20
    1. Trên thị trường sơ cấp. 20
    1.1. Vai trò phát hành. 20
    1.2. Vai trò đầu tư trực tiếp. 21
    1.3. Vai trò phân phối, bảo lãnh phát hành. 21
    2. Trên Thị trường thứ cấp. 21
    2.1. Kinh doanh trái phiếu. 21
    2.2. Sản phẩm phái sinh. 22
    2.3. Cho vay chứng khoán. 22
    II/ Hoạt động cua NHTM trên thi trường chứng khoán ở Việt Nam22
    1. Sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam22
    1.1. Quá trình hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam23
    1.2. Thực trạng của thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay. 26
    2. Sự tham gia của Ngân hàng thương mại trên Thị trường chứng khoán. 29
    2.1. Ngân hàng thương mại tham gia với tư cách là tổ chức cung cấp dịch vụ thông qua các các công ty chứng khoán của mình. 30
    2.2. Ngân hàng thương mại tham gia vào thị trường chứng khoán với tư cách là chủ thể phát hành chứng khoán. 36
    2.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong hoạt động của Ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán. 38
    III. Một số giải pháp và phương hướng hoàn thiện. 41
    1. Đối với Nhà nước và các Cơ quan quản lý thị trường. 41
    2. Các giải pháp đối với các Ngân hàng thương mại45
    C. KẾT LUẬN48

    D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


    BẢNG PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC VÀ ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THAM GIA CỦA CÁC THÀNH VIÊN​ 1. Tiêu chuẩn đánh giá sự tham gia của các thành viên trong việc xây dựng bài tập nhóm:
    Điểm
    Đánh giá mức độ tham gia
    Ghi chú
    A
    Tốt – Nhiệt tình
    “ + ” : Rất tốt
    B
    Khá

    C
    Trung bình

    D
    Không tham gia


    2. Bảng đánh giá:
    TÊN THÀNH VIÊN
    NHIỆM VỤĐIỂM ĐÁNH GIÁLê Thị Hương (Nhóm trưởng)
    Phân công, tổng hợp, đánh giá bài,
    A
    Lê Thi Dung
    B.II.2. Sự tham gian của NHTM trên thị trường chứng khoán
    A+
    Trần Thị Huyền Trang
    B.I.3. Mối quan hệ giữa hoạt động của NHTM và hoạt động của TTCK
    A+
    Nguyễn Thị Thơ
    B.III. Một số giải pháp và phương hướng hoàn thiện
    A+
    Nguyễn Thi Như Quỳnh
    B.II.1. Sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam

    A+
    Hoàng Thị Hồng Nhung
    B.I.1. Thị trường chứng khoán và hoạt động của TTCK
    A+
    Đinh Thị Thương
    B.I.2. 2. Hoạt động của Ngân hàng Thương mại trên TTCK
    A+
    Trương Thị Hương Giang
    Tìm tài liệu, làm phần Mở đầu, kết luận
    A+
























    A. LỜI MỞ ĐẦU​ Xây dựng và phát triển thi thường chứng khoán (TTCK) là một xu thế tất yếu của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của các nước phát triển cũng như các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. Đó cũng chính là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta nhằm tạo lập kênh huy động vốn dài hạn cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Định hướng này tiếp tục được khẳng định trong văn kiện Đại hội X của Đảng: "Phát triển mạnh thị trường vốn theo hướng phát triển vững mạnh hệ thống ngân hàng thương mại thuộc các thành phần kinh tế, phát huy vai trò của các ngân hàng trong việc huy động và cho vay vốn đầu tư; đồng thời khẩn trương nâng cấp và thực hiện các biện pháp đồng bộ để phát triển nhanh TTCK thành một kênh huy động vốn dài hạn quan trọng trong nền kinh tế. Đẩy nhanh và mở rộng diện cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước (DNNN), khuyến khích hình thành các công ty cổ phần thuộc mọi thành phần kinh tế, kể cả các doanh nghiệp FDI, niêm yết cổ phiếu và huy động vốn qua TTCK. Hình thành đồng bộ thể chế về TTCK; tăng cường hỗ trợ của Nhà nước về kết cấu hạ tầng kỹ thuật, đào tạo nguồn nhân lực, phổ cập kiến thức, tạo điều kiện thuận lợi cho công chúng tham gia thị trường này".
    Với trên 5 năm hình thành và hoạt động, thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam đã có những bước phát triển đáng kể. Riêng trong năm 2005, chỉ số VNIndex đã tăng từ 237,23 lên 307,5, tức 30%. Tổng giá trị thị trường đạt 26.878 tỷ đồng, trong đó cổ phiếu chiếm 10,4%, trái phiếu chiếm 88,7% và chứng chỉ quỹ chiếm 0,9%.
    Tuy còn non trẻ, nhưng TTCK Việt Nam đã chứng tỏ là một kênh dẫn vốn quan trọng, phục vụ đắc lực cho công cuộc phát triển kinh tế của đất nước. Người ta thường cho rằng, khi TTCK có xu hướng tăng trưởng mạnh mẽ thì lượng chu chuyển vốn qua hệ thống Ngân hàng Thương mại (NHTM) bị giảm sút và ngược lại. Tuy nhiên, đặc thù của nền kinh tế Việt Nam với tiềm năng về vốn trong dân cư còn rất lớn thì nếu có sự tham gia của các NHTM vào TTCK sớm hơn và mạnh mẽ hơn thì TTCK còn có những bước phát triển ngoạn mục hơn nữa. Bên cạnh đó việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về hoạt động của NHTM trên TTCK đang là một vấn đề khá nóng hổi, cần thiết. Làm được điều đó, chúng ta đã tạo ra cơ sở pháp lý quan trọng cho sự hoạt động và phát triển của NHTM và TTCK.
    Chính vì những lý do nêu trên mà nhóm em đi tìm hiểu hệ thống pháp về hoạt động của NHTM trên TTCK ở Việt Nam hiện nay.
    B. NỘI DUNG
    I. KQC về Ngân hàng Thương mại và Thị Trường chứng khoán
    1. Thị trường chứng khoán và hoạt động của thị trường chứng khoán
    Dưới sự chỉ đạo của Chính phủ, 1992 các tổ chức thuộc nghiên cứu BTC và ngân hàng nhà nước Việt Nam đã triển khai nghiên cứu đề án hinhg thành phát triển thị trường vốn ở Việt Nam. Ngày 28/11/1996 Chính phủ ban hành nghị định số 75/CP thành lập UBCKNN – là cơ quan thuộc chính phủ quản lý các hoạt động về chứng khoán và TTCK ở Việt Nam.
    Ngày 11/07/1998, Nghị định số 48/1998/ NĐ-CP của chính phủ về chứng khoán và TTCK và Quyết định số 127/1998/QĐ-TTH của thủ tướng chính phủ về việc thành lập TTGDCK ở HN và TPHCM được ban hành. Ngày 19/02/2004, theo nghị định 66/2004/NĐ-CP của Chính phủ. UBCK được chuyển về dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ tài chính. Ngày 08/03/2005, TTGDCK HN chính thức được khai trương.
    1.1. Khái niệm thị trường chứng khoán
    Hiện nay có nhiều cách định nghĩa khác nhau về thị trường chứng khoán.
    - Quan điểm thứ nhất cho rằng thị trường chứng khoán và thị trường vốn là một. Nếu xét về mặt nội dung, thì thị trường vốn biểu hiện các quan hệ bản chất bên trong của các quá trình mua bán chứng khoán. TTCK là biểu hiện bên ngoài, là hình thức giao dịch vốn cụ thể. Do đó, các thị trường này không thể phân biệt, tách rời nhau mà thoongd nhất phản ánh các quan hệ bên trong và bên ngoài của thị trường thư bản.
    - Quan điểm thứ hai của đa số các nhà kinh tế cho rằng : “ Thị trường chứng khoán được đặc trưng bởi thị trường vốn chứ không đồng nhất là một”. Như vậy, theo quan điểm này, TTCK và thị trường vốn khác nhau, trong đó TTCK chỉ giao dịch, mua bán các công cụ tài chính trung và dài hạn như trái phiếu chính phủ, cổ phiếu và trái phiếu công ty. Các công cụ tài chính ngắn hạn được giao dịch trên thị trường tiền tệ, không thuộc phạm vi hoạt động của TTCK.
    - Quan Điểm thứ ba, dựa trên những gì quan sát được đại đa số các Sở giao dịch chứng khoám cho rằng “Thị trường chứng khoán là thị trường cổ phiếu”, hay là nơi mua bán cổ phần được các công ty phát hành ra để huy động vốn. Theo quan điểm này, thị trường chứng khoán đặc trưng bởi thị trường mua bán các công cụ tài chính mang lại quyền tham gia sở hữu.
    Các quan điểm trên đều được khái quát dựa trên những cơ sở thực tiễn và trong từng điều kiện lịch sử nhất định.
    Tuy nhiên quan điểm đầy đủ và rõ ràng, phù hợp với sự phát triển chung của TTCK hiện nay, được trình bày trong giáo trình là:
    Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các hoạt động phát hành mua bán chuyển nhượng chứng khoán của các chủ thể trong nền kinh tế như: phát hành, mua bán, chuyển nhượng quyền sở hữu chứng khoán (tặng cho .làm ở trung tâm lưu ký chứng khoán).

    1.2. Hoạt động của thị trường chứng khoán
    Hoạt động của thị trường chứng khoán được thể hiện qua hoạt động của thị trường tập trung, thị trường phi tập trung và một số thị trường chứng khoán khác.
    - Sở giao dịch chứng khoán hay còn gọi là thị trường tập trung, nơi diễn ra giao dịch mua bán, trao đổi chứng khoán của các công ty lớn. Tại đây người mua và người bán (đại lý,môi giới) gặp nhau tại một địa điểm nhất định để tiến hành giao dịch trao đổi chứng khoán. Sở giao dịch chứng khoán được quản lý một cách chặt chẽ bởi Ủy ban chứng khoán quốc gia, các giao dịch này chịu sự điều tiết của Luật chứng khoán và thị trường chứng khoán. Những thị trường chứng khoán được biết đến là sở Giao dịch chứng khoán Luân Đôn, Sở giao dịch chứng khoán Mỹ, Sở giao dịch chứng khoán Pa Ri.
    - Thị trường chứng khoán phi tập trung: hoạt động của mô hình giao dịch này thông qua quầy, là thị trường của các nhà buôn, những người tạo thị trường. Các nhà buôn có một có một danh mục chứng khoán và họ sẵn sàng mua và bán với các nhà buôn khác cũng như các nhà đầu tư khi những người này chấp nhận giá cả của họ. Thị trường chứng khoán phi tập trung không có địa điểm giao dịch chính thức mà có thể diễn ra tại các quầy, sàn giao dịch của các thành viên thông qua điện thoại hay mạng máy diện rộng. Khối lượng giao dịch của thị trường này lớn hơn rất nhiều lần so với Sở giao dịch.
    Ngoài hai thị trường nêu trên, người ta còn nói đến thị trường thứ ba, thị trường dành cho các chứng khoán không đủ tiêu chuẩn để giao dịch trên thị trường tập trung và thị trường OTC.

    2. Hoạt động của ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán
    NHTM có vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển TTCK, cả đối với thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp.

    2.1 Các mô hình hoạt động của ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán.
    2.1.1 Trên thị trường sơ cấp (primary market):
    - Các ngân hàng tham gia hoạt động với tư cách là người phát hành và bán cổ phiếu của mình (ngân hàng cổ phần). các ngân hàng cổ phần phát hành cổ phiếu để tạo nguồn vốn khi mới thành lập hoặc tăng vốn bổ sung them trong quá trình hoạt động. ngoài ra, tất cả các ngân hàng (không phân biệt thành phần sở hữu) cũng phát hành trái phiếu để huy động vốn từ nền kinh tế. Những việc làm này (phát hành cổ phiếu, trái phiếu) đã tạo cho TTCK một khối lượng hàng hóa rất lớn ở thị trường sơ cấp.
    - Ngân hàng cung cấp các dịch vụ về tư vấn phát hành chứng khoán, làm đại lý phát hành chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán. Các doanh nghiệp muốn phát hành cổ phiếu (đối với công ty cổ phần) hoặc trái phiếu (đối với tất cả các doanh nghiệp) để tạo vốn, hoặc bổ sung hay tăng vốn, có thể nhờ ngân hàng làm các dịch vụ:
    + Tư vấn về vấn đề phát hành (lựa chọn loại chứng khoán phát hành, lợi suất, thời hạn chứng khoán và các vấn đề kỹ thuật khác);
    + Nhờ ngân hàng làm đại lý phát hành chứng khoán hưởng phí hoa hồng hoặc bao tiêu toàn bộ chứng khoán của một đợt phát hành và hưởng phí bao tiêu.

    2.1.2 Trên thị trường thứ cấp (secondary market):
    Các ngân hàng thực hiện các dịch vụ với tư cách là một trung gian môi giới chứng khoán như:
    + Mua bán chứng khoán hộ cho khách hàng để hưởng phí hoa hồng.
    + Bảo quản hộ chứng khoán.
    + Thu hồi vốn, nhận lãi chứng khoán hộ cho khách hàng cũng như dịch vụ thanh toán các chứng khoán Nói ngắn gọn, ngân hàng làm dịch vụ đại diện cho khách hàng hàng trong việc lưu giữ và quản lý chứng khoán, ghi có vào tài khoản của họ ( khi thu hồi vốn chứng khoán đến hạn, thu lãi chứng khoán, cổ tức ) gửi tại ngân hàng.
    + Tư vấn mua bán chứng khoán, tư vấn về mặt giá cả chứng khoán khi mua bán hoặc ngân hàng có thể mua bán chứng khoán cho chính mình để hưởng lợi hoặc hưởng giá thặng dư hoặc vì nhiều mục đích khác.
    Về mặt lý thuyết NHTM có thể thực hiện được tất cả các nghiệp vụ đã nêu trên nhưng thực tế làm được hay không là do điều kiện cụ thể mỗi ngân hàng trong từng nước.
    Ngày nay, ở các nước, trên TTCK các Ngân hàng tham gia hoạt động với tư cách là người phát hành và bán các cổ phiếu của mình ( Ngân hàng cổ phần), hoặc mua cổ phiếu của các doanh nghiệp, của các Ngân hàng khác và của nhà nước, tức là với tư cách của một khách hàng bình thường trên thị trường. Đồng thời và quan trọng hơn, các ngân hàng tham gia thị trường với chức năng môi giới ăn hoa hồng hoặc chức năng kinh doanh chứng khoán.
    Trong trường hơp làm chức năng môi giới, ngân hàng trên thực tế chỉ thực hiện yêu cầu của khách hàng là lấy danh nghĩa của mình để mua bán chứng khoán cho khách hàng và được hưởng một khoản hoa hồng theo thỏa thuận. với chức năng này, ngân hàng không hề phải bỏ ra một đồng vốn nào, mọi khoản chi phí khách hàng phải chịu trách nhiệm cung cấp. Hơn nữa, lợi dụng quyền thay mặt mình và quyền không phải thông báo cho khách hàng biết đã mua chứng khoán của ai hoặc bán cho ai, ngân hàng có thể bán ngay số chứng khoán của mình cho khách hàng hoặc mua luôn số chứng khoán của khách hàng cho mình, nếu thấy có lợi. Chẳng hạn, khi một khách hàng ủy quyền cho ngân hàng mua cổ phiếu của một công ty nào đó với giá “rẻ nhất” tại thời điểm quy định, thì ngân hàng sẽ không nhất thiết phải mua các cổ phiếu đó ở Sở GDCK, mà có thể lấy chứng từ dự trữ của mình để bán cho khách hàng. Tất nhiên, trong trường hợp như vậy, ngân hàng phải nắm vững tỷ giá chính thức để xác định mức giá bán cho khách hàng.
    Các ngân hàng cũng tích cực sử dụng chức năng kinh doanh chứng khoán, tức là chức năng mua đi bán lại các loại chứng khoán bằng vốn của mình bỏ ra. Đặc điểm của hình thức kinh doanh này là ngân hàng luôn luôn mua chứng khoán của khách hàng bằng tiền mình và bán cho khách hàng từ dự trữ của mình. Đồng thời việc thực hiện các nghiệp vụ này đối với khách hàng không vì mục đích ăn hoa hồng, mà lợi nhuận chênh lệch giữa giá mua và giá bán. Nghĩa là ngân hàng sẽ tìm cách mua các chứng khoán với giá thấp nhất, bán chúng với giá cao nhất.
    Một dạng khác của hoạt động kinh doanh trên TTCK của ngân hàng là hoạt động đầu cơ chứng khoán. ở Sở GDCK khác nhau thị giá của cùng 1 loại chứng khoán cũng GDCK có mối liên hệ về thông tin rất chặt chẽ. Do đó, các ngân hàng sẽ mua các chứng khoán ở nơi có thị giá thấp để bán ở nơi có thị gía cao để kiếm lời cho tới khi thị giá được cân bằng giữa các thị trường.

    2.2 Các nghiệp vụ của ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán
    2.2.1 Ngân hàng là nhân tố góp phần thúc đẩy quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước và hình thành các công ty cổ phần.
    Ngân hàng tham gia vào việc thành lập công ty cổ phần hoặc cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước với 1 tỷ lệ cổ phiếu đáng kể để có đủ điều kiện tham gia quản trị kinh doanh, tín nhiệm. Công ty cổ phần dù mới thành lập hay cổ phần hóa, vốn vẫn còn hạn hẹp so với yêu cầu của kỹ thuật và công nghệ hiện đại, do đó ngân hàng phải là trợ thủ đắc lực cho các Công ty cổ phần, tạo điều kiện cho các công ty cổ phần vay tín dụng. Như vậy, chính chế độ tín dụng và ngân hàng đã xã hội hóa các nguồn vốn, giải quyết mâu thuẫn trong sự vận động của nguồn vốn giữa các thành phần kinh tế, xóa bỏ tính chất tư nhân cá biệt của nguồn vốn trong công ty cổ phần. một doanh nghiệp có thể bắt đầu hoạt động của mình bằng một món nợ vay ngân hàng. Vay ngân hàng là một cơ sở hoat động của các doanh nghiệp và năng lực kinh doanh của họ. các ngân hàng là người đầu tiên đã lập ra việc kiểm tra các hoạt động của công ty, họ quyết định có nên cho vay hay không và có nên tiếp tục cung cấp tín dụng hay không. Ngân hàng sẽ cung cấp kinh doanh nếu biết được rằng một Công ty thành công cuối cùng có thể hoạt động kinh doanh trên thị trường chứng khoán. Như vậy kỷ cương tài chính của Ngân hàng sẽ đưa Công ty vào TTCK, sau đó TTCK sẽ bổ sung một kỷ luật tài chính đối với Công ty.
    2.2.2 Ngân hàng giúp các Công ty phát hành chứng khoán trên thị trường chứng khoán sơ cấp.
    Khi những nhà sáng lập một công ty nào đó muốn phát hành chứng khoán để thu hút vốn, họ có thể dựa vào uy tín và kinh nghiệm của Ngân hàng để ký hợp đồng về việc phát hành và bán các chứng khoán của mình. Như vậy, Ngân hàng thực hiện chức năng môi giới phát hành chứng khoán giữa những người muốn bán và những người mua chứng khoán. Khi đảm nhận vai trò này, Ngân hàng sẽ giúp cho những người sáng lập công ty chọn lựa loại chứng khoán phát hành, tư vấn về các vấn đề như lãi suất chứng khoán, thời hạn chứng khoán và các vấn đề kỹ thuật khác. Trong những trường hợp đặc biệt, như sẽ phát hành khá lớn, các ngân hàng có thể cùng nhau chia sẻ việc dự định số phát hành này nhằm giảm thiểu rủi ro, hoặc mua toàn bộ các cổ phiếu, trái phiếu phát hành mới và sau đó bán lại cho công chúng. Như vậy, Ngân hàng đã đóng vai trò quan trọng trên thị trường sơ cấp.

    2.2.3 Ngân hàng làm trung gian mua bán chứng khoán ở thị trường thứ cấp.
    Đây là dịch vụ ngân hàng rất phát triển ở các nước trên thế giới và ở nước ta sau này, gọi là dịch vụ trung gian chứng khoán (Brokerate service). Hoạt động loại này của ngân hàng trên thị trường thứ cấp cần phải có luật pháp đảm bảo với các quy định chặt chẽ, nhằm tránh những trường hợp đầu cơ gây lộn xộn trên thị trường chứng khoán.
    Ở nước ta, khi thành lập Sở giao dịch chứng khoán, có thể nói ngân hàng là ứng cử viên có nhiều ưu thế nhất vào chức danh người môi giới chứng khoán, bởi lẽ:
    - Ngân hàng là người hiểu biết khá tường tận về các doanh nghiệp phát hành chứng khoán (thông qua các quan hệ tín dụng, thanh toán ).
    - Ngân hàng là người sẵn có những phương tiện kỹ thuật cần thiết phù hợp với yêu cầu của người môi giới.
    - Ngân hàng có đội ngũ cán bộ, nhân viên có nghiệp vụ chuyên môn liên quan chặt chẽ và gần gũi với những nghiệp vụ về chứng khoán.

    2.2.4 Cung cấp các dịch vụ lưu giữ và quản lý chứng khoán cho khách hàng. Dịch vụ này được thực hiện theo hai cách.
    Ngân hàng có thể lưu giữ các chứng khoán được sử dụng như vật thế chấp cho một khoản vay của khách hàng; các ngân hàng nhỏ không có đủ điều kiện để giữ chứng khoán cho khách hàng, có thể giữ chứng khoán tại một ngân hàng lớn; các doanh nghiệp công ty cũng có thể có yêu cầu này; những cá nhân có nguồn tiền lớn cũng có thể nhờ ngân hàng quản lý sinh lời tài sản của họ và giao chứng khoán cho ngân hàng quản lý.
    Mặt khác, ngân hàng cũng được yêu cầu bởi những người có chứng khoán thực hiện những dịch vụ có liên quan đến chứng khoán khi họ vắng mặt trong một thời gian dài, như thu hồi vốn các chứng khoán đến hạn, hoặc thu lãi cổ tức và ghi có vào tài khoản của họ. Đối với các ngân hàng, đây là dịch vụ ngày càng có khả năng mở rộng và là một nguồn lợi đáng kể. Còn đối với những người mua bán chứng khoán, việc ngân hàng sẵn sàng cung cấp loại dịch vụ này đã giúp cho họ đỡ tốn kém chi phí, thời gian, được an toàn và hưởng lợi hơn nhờ kinh nghiệm và chuyên môn của ngân hàng.

    2.2.5 Thực hiện việc thanh toán các chứng khoán.
    Nghiệp vụ thanh toán tiếp nối dịch vụ quản lý chứng khoán đã nêu trên. Ngân hàng có thể mở cho khách hàng của mình các tài khoản chứng khoán để theo dõi việc mua, bán, chuyển nhượng chứng khoán của khách hàng, kể cả việc thu lãi, thu cổ tức. Rõ ràng những tài khoản chứng khoán sẽ giúp ích rất nhiều cho những hoạt động mua bán chứng khoán trên thị trường. Các nhà đầu tư và kinh doanh chứng khoán, các trung gian, môi giới không phải bận tâm với việc lưu giữ và theo dõi việc mua bán một số lượng khổng lồ các cổ phiếu, trái phiếu hằng ngày. Ngân hàng sẽ đảm bảo cho khách hàng công việc này. Nhờ ngân hàng tổ chức thực hiện việc thanh toán các chứng khoán, hoạt động mua, bán cổ phiếu, trái phiếu trên TTCK sẽ thực hiện nhanh chóng, dễ dàng hơn và không phải di chuyển qua lại một số lượng lớn các cổ phiếu, trái phiếu rất cồng kềnh, tốn kém.
    Cần lưu ý là, chứng khoán lúc đầu chỉ là phương tiện huy động vốn nhưng về sau cũng trở thành mặt hàng kinh doanh, một sản phẩm đặc biệt, từ đó việc mua bán sản phẩm đặc biệt này tạo ra một luồng tiền tệ đi ngược chiều. Chính nhờ có hệ thống ngân hàng, mà hầu hết các giao dịch chứng khoán thực hiện bằng chuyển khoản qua hệ thống ngân hàng, nên nhu cầu tiền mặt không lớn lắm.

    2.2.6 Công tác thanh toán bù trừ
    Hoạt động giao dịch chứng khoán diễn ra liên tục trên sở giao dịch chứng khoán, bên cạnh đó là sự luân chuyển của vốn phải làm sao để theo kịp với sự luân chuyển của chứng khoán. Chúng ta biết rằng hoạt động trên thị trường chứng khoán hết sức sôi động, nếu tất cả các khoản thanh toán đều thực hiện bằng tiền mặt thì sẽ mất đi sự sôi động của thị trường, vì người mua, người bán chỉ lo trả tiền và nhận tiền, thu lệ phí cũng đã mất hết thời gian, đặc biệt là với các nhà kinh doanh chứng khoán chuyên nghiệp, các nhà đầu cơ chứng khoán phải có cả một hệ thống người giúp việc mới hy vọng đáp ứng được công việc thu và trả tiền mặt, và có lẽ sở giao dịch lại biến thành một “Ngân hàng” và hoạt động giao dịch tiền mặt ngày càng tăng lên theo sự gia tăng của giao dịch chứng khoán. Để giải quyết được nhược điểm này, người ta áp dụng thanh toán bằng chuyển khoản, đã giảm đi một gánh nặng lớn, theo đó tất cả ngân hàng, khi các giao dịch mua bán kết thúc thì mỗi người đều nhận được các giấy báo Nợ, báo Có mà không cần phải quan tâm đến tiền mặt nữa, đây là một bước tiến lớn giúp cho thị trường chứng khoán hoạt động được trôi chảy hơn. Do đó, chúng ta cần phải khẩn trương thúc đẩy mở tài khoản cá nhân để tạo thuận lợi cho hoạt động của thị trường chứng khoán, khi thực hiện thanh toán bằng chuyển khoản đã giảm bớt thời gian cho các khoản giao dịch, trong khi đó các nhà đầu tư, các nhà môi giới, các chuyên gia chứng khoán phải thực hiện rất nhiều giao dịch trong ngày do đó để giản tiện người ta áp dụng việc thanh toán bù trừ để đơn giản hóa việc thanh toán.
    Việc thực hiện công tác thanh toán đều do các ngân hàng đảm nhận, nếu công tác này được tiến hành tốt sẽ là một yếu tố quan trọng thúc đẩy sự thành công của một thị trường chứng khoán. Thanh toán và thanh toán bù trừ được thực hiện theo các trình tự sau:
    + Người mua, người bán, nhà môi giới đều có tài khoản tại một ngân hàng.
    Sau khi các lệnh mua bán được các nhà môi giới thực hiện lúc này sẽ có một hóa đơn được lập để xác định việc mua bán (số lượng, giá cả) để gửi đến ngân hàng nhờ thanh toán hộ, căn cứ vào hóa đơn ngân hàng sẽ ghi Nợ cho người mua và ghi Có cho người bán và những người được hưởng hoa hồng, đây là trường hợp thanh toán đơn giản nhất, tất nhiên theo yêu cầu của khách hàng thì có thể được thanh toán ngay hoặc sau một thời gian nhất định, thường thì sau từ một đến hai ngày vì không thể tất cả các giao dịch đều thanh toán được ngay, nếu khách hàng muốn thanh toán “nóng” thì phải trực tiếp mang hóa đơn đến ngân hàng còn thường thì do các người môi giới chuyển đến ngân hàng để thanh toán, khách hàng có thể nhận báo Nợ, báo Có tại Ngân hàng hay tại các Công ty chứng khoán.
    + Người mua, người bán, người môi giới không mở tài khoản tại một ngân hàng, lúc này phải tham gia thanh toán bù trừ qua ngân hàng nhà nước, các hóa đơn mua bán đều được gửi về ngân hàng người mua và người bán mở tài khoản để thanh toán sau đó ngân hàng bên mua và bán tham gia thanh toán bù trừ, trong trường hợp này thì phải mất từ hai đến ba ngày khách hàng mới có thể nhận được giấy báo Nợ, báo Có.
    Nói chung tất cả các trường hợp mua bán chứng khoán đều có tài khoản tại ngân hàng mới đảm bảo cho giao dịch được diễn ra nhanh chóng, việc muabans bằng tiền mặt hầu như không còn xuất hiện ở thị trường chứng khoán ngày nay, ở nước ta trong trường hợp khách hàng chưa có tài khoản tại ngân hàng thì chưa thể tham gia vào hoạt động ở thị trường được. Lúc này đương nhiên khách hàng phải mở ngay tài khoản ở một ngân hàng nào đó.
    2.2.7 Tư vấn về phát hành và mua bán chứng khoán
    a. Phát hành chứng khoán
    Vai trò của khâu phát hành chứng khoán rất quan trọng, đó là nơi cung ứng chứng khoán vào lưu thông - đáp ứng nhu cầu vốn cho chủ thể phát hành – là nơi đầu tiên và duy nhất các chứng khoán được định giá để “nhảy” vào thị trường. Có thể nói khâu phát hành chứng khoán giúp cho cỗ máy giao dịch chứng khoán bắt đầu vận hành, cũng từ đây hình thành thị trường chứng khoán sơ cấp tương lai. Xuất phát từ vai trò của khâu phát hành chứng khoán và mục đích bảo vệ các nhà đầu tư, nêu ngay từ khâu đầu tiên là phát hành chứng khoán cần phải được quản lý chặt chẽ.
    Trong giai đoạn phát hành, tức là đưa chứng khoán ra bán ở thị trường là một trong những giai đoạn quan trọng nhất trong quá trình gọi vốn của công ty, hiện tượng các nhà đầu tư mua chứng khoán có ý nghĩa tán thành hay bác bỏ sự ra đời, tồn tại hay phát triển của công ty, các công ty cổ phần không chỉ cạnh tranh trên thị trường hàng hóa, dịch vụ mà còn cạnh tranh trên thị trường vốn để giành được các nhà đầu tư sẵn sàng cung ứng vốn cho công ty. Việc phát hành có thể chọn những cách sau:
    + Bán riêng cho các nhà đầu tư lớn, hình thức này các nước phát triển đã áp dụng vì hệ thống các định chế tài chính trung gian phát triển mạnh, đa dạng, nhưng ở nước ta lại quá ít, chủ yếu tập trung vào ngành ngân hàng tài chính, các công ty tài chính thì quá nhỏ bé, quĩ bảo hiểm chỉ kinh doanh đơn thuần, quĩ đầu tư, quĩ hưu trí chưa hình thành. Hình thức phát hành này vừa có lợi cho khách hàng vì huy động được nguồn vốn nhanh, tập trung, giảm được chi phí phát hành, còn với các nhà đầu tư thì chỉ cần đầu tư mua cổ phiếu của các tổ chức tài chính trung gian mà không cần phải quan tâm đến người phát hành.
    + Bán trực tiếp cho các nhà đầu tư cuối cùng, đây là hình thức đang áp dụng phổ biến nhất ở nước ta hiện nay, các công ty cổ phần mới thành lập phát hành cổ phiếu lần đầu hoặc phát hành bổ sung đều thực hiện bằng cách thông báo trực tiếp đến các nhà đầu tư, để họ đăng ký mua cổ phần, sau khi số lượng đăng ký mua đủ thì tổ chức đại hội cổ đông và chuẩn bị các bước chuẩn bị cho phát hành cổ phiếu, với hình thức này công ty phát hành sẽ giảm được chi phí qua trung gian, nhưng thực tế việc huy động vốn chậm, kéo dài và có khi không huy động đủ số vốn cần huy động, nhất là với các công ty mới thành lập sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc huy động vốn từ các nhà đầu tư. Với các nhà đầu tư thì phải chịu nhiều rủi ro vì trình độ có hạn, lại không thể tự nhờ vào một trung gian nào giúp đỡ trong việc quyết định đầu tư.
    + Phát hành thông qua sở giao dịch chứng khoán: Tức là có các định chế tài chính trung giant ham gia bảo lãnh phát hành, đây là hình thức áp dụng phổ biến nhất hiện nay ở các nước, vì các công ty cổ phần lớn muốn huy động trong thời gian ngắn đủ số vốn cần thiết, việc làm này chỉ có thể thực hiện được thông qua các định chế tài chính trung gian bảo lãnh phát hành, tuy chi phí phát hành tăng them nhưng lại thu được hiệu quả lớn. Hình thức này ở nước ta chưa được áp dụng bởi vì hầu hết các công ty cổ phần tổ chức dưới dạng công ty cổ phần nội bộ, chưa đạt được là công ty cổ phần đại chúng. Hình thức này được tiến hành như sau:
    Khi công ty làm xong các thủ tục về thành lập công ty thì phải tìm kiếm được các nhà bảo lãnh, bảo đảm bao tiêu toàn bộ số chứng khoán phát hành, sau đó bán lại cho các nhà đầu tư cuối cùng để hưởng hoa hồng hay lệ phí phát hành, nó thường được tính từ 3% đến 10% so với giá bán trực tiếp cho các nhà đầu tư.

    b. Giao dịch mua chứng khoán
    Việc giao dịch mua bán chứng khoán nói chung được thực hiện thông qua các công ty chứng khoán thành viên của sở giao dịch chứng khoán, kể cả các công ty chứng khoán không phải là thành viên cũng phải mua bán thông qua các công ty thành viên.Về nguyên tắc các công ty chứng khoán thành viên không được thực hiện giao dịch mua bán ngoài sở giao dịch đã đăng ký. Các công ty chứng khoán thực hiện giao dịch mua bán chứng khoán với cương vị là người môi giới nên phải tuân thủ lệnh của khách hàng, hiện nay có thể phổ biến dung ba loại lệnh cơ bản sau: lệnh thị trường – lệnh giới hạn – lệnh dừng để mua hoặc bán. Tất nhiên trong điều kiện hiện nay, các nhà đầu tư khó mà lựa chọn được một loại lệnh có lợi nhất, với loại lệnh thị trường thường được áp dụng khi chỉ số giá chứng khoán ổn định trong một thời gian dài, người ta mua chứng khoán để hưởng lợi tức là chính và đây cũng là loại lệnh thông dụng nhất cho các nhà đầu tư sử dụng, tất nhiên đối với các nhà môi giới vẫn phải thận trọng tính toán để sao cho việc mua bán cho khách hàng là có lợi nhất, có như vậy các nhà môi giới mới mới thu hút được khách hàng, tạo ra uy tín lớn trong công chúng. Với loại lệnh giới hạn nó thường được sử dụng cho các nhà đầu tư có sự hiểu biết về kinh tế, biết phân tích, nhận định tình hình tương lai của loại chứng khoán đó để ra mức giới hạn, theo đó các nhà môi giới thực hiện theo lệnh của khách hàng, thường lệnh này không được thực hiện ngay, cần phải có thời gian. Còn với lệnh dừng để mua bán thường áp dụng cho các nhà đầu cơ ngắn hạn, nhằm hạn chế các mức rủi ro mà họ gặp phải, nên thường họ tính trước một mức lời theo đó giá lên cao hoặc xuống thấp đến một mức nào đó thì phải bán ra hoặc mua vào.
    Nói chung các loại lệnh này còn tùy thuộc tình hình thực tế để lựa chọn và trong thời gian đầu thị trường mới đi vào hoạt động thì sự giúp đỡ của các nhà môi giới rất quan trọng, sự giúp đỡ đó sẽ tạo điều kiện cho các nhà đầu tư lựa chọn cho mình một loại lệnh tốt nhất, tất nhiên đây cũng là sự giúp đỡ mà thôi, cái chính vẫn do các nhà đầu tư quyết định.
    Đi kèm với các loại lệnh là định chuẩn lệnh, nó là khoảng thời gian có hiệu lực để các nhà môi giới thực hiện lệnh của khách hàng, khách hàng có thể lựa chọn một trong các loại định chuẩn lệnh như: lệnh có giá trị trong ngày; lệnh có giá trị đến khi hủy bỏ lệnh với giá mở cửa; lệnh với giá đóng cửa; lệnh thực hiện nay tức khắc hoặc hủy bỏ.
    Sau khi khách hàng và công ty chứng khoán đã thống nhất được một số điểm chính như lựa chọn loại chứng khoán, lựa chọn lệnh và định chuẩn lệnh thì tiến hành ký kết một bản hợp đồng về mua bán chứng khoán, đây sẽ là cơ sở pháp lý để công ty chứng khoán thực hiện lệnh của khách hàng.
    Sau khi hợp đồng được ký kết, công ty chứng khoán sẽ lập phiếu lệnh để chuyển đến nhà môi giới ở sở giao dịch chứng khoán thực hiện.
    Để sớm hình thành TTCK và phát triển các hoạt động của thị trường này, việc hoàn thiện hệ thống ngân hàng có công nghệ ngân hàng cao là yêu cầu cấp thiết hiện nay. Điều này đòi hỏi các Ngân hàng thương mại phải nâng cao và mở rộng các nghiệp vụ của mình, phát triển công nghệ ngân hàng và đòi hỏi ngân hàng Nhà nước phải hoàn thiện các chính sách tiền tệ của mình để tạo môi trường thích hợp cho việc hình thành và phát triển TTCK ở nước ta.

    Như vậy, qua quá trình phân tích trên, chúng ta có thể rút ra khái quát về các nghiệp vụ của ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán như sau:
    Đối với hoạt động ngân hàng đầu tư, được chia thành 2 nhóm nghiệp vụ, nhóm được trực tiếp thực hiện hoặc phải triển khai thông qua các công ty con. Ngân hàng thương mại được phép trực tiếp tư vấn tài chính doanh nghiệp, mua bán, sáp nhập doanh nghiệp và tư vấn đầu tư chứng khoán; lưu ký chứng khoán, mua bán trái phiếu chính phủ.
    Với các nghiệp vụ như bảo lãnh phát hành chứng khoán; tự doanh chứng khoán bao gồm cả mua bán cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp; môi giới chứng khoán; quản lý, phân phối chứng chỉ quỹ đầu tư; quản lý danh mục đầu tư chứng khoán ngân hàng không được trực tiếp thực hiện mà phải thông qua các công ty con của mình.
    * Trên thị trường sơ cấp
    - Vai trò phát hành: Nhằm phục vụ cho mục tiêu tăng trưởng, nhu cầu vốn dài hạn thông qua phát hành trái phiếu của các NHTM là rất lớn. Cho đến nay, hoạt động phát hành trái phiếu của các NHTM chưa phải là hoạt động thường xuyên, liên tục. Tuy nhiên, đợt phát hành trái phiếu tăng vốn vừa qua của Ngân hành Ngoại thương (NHNT) đã chứng tỏ mối quan tâm lớn của thị trường đối với trái phiếu ngân hàng, đặc biệt là các NHTM hoạt động tốt có uy tín. Nhằm phục vụ cho tăng trưởng kinh tế, yêu cầu về mở rộng quy mô vốn của các NHTM càng đặt ra bức thiết. Việc các NHTM phát hành trái phiếu có ý nghĩa quan trọng: một mặt, nó góp phần tăng hàng hoá cho thị trường chứng khoán, mặt khác nó là một kênh dẫn vốn quan trọng cho các NHTM cho mục tiêu tăng trưởng của nền kinh tế
    - Vai trò đầu tư trực tiếp: Với tiềm lực tài chính mạnh và khả năng sử dụng vốn ngắn hạn đầu tư dài hạn, các NHTM có thể đóng vai trò là nhà đầu tư trên thị trường trái phiếu, đặc biệt là đối với trái phiếu Chính phủ, vốn đòi hỏi tầm nhìn đầu tư trung và dài hạn. Trên thực tế, một số lượng lớn trái phiếu Chính phủ và công trái là do NHTM mua. Trong năm 2005, tổng lượng trái phiếu Chính phủ phát hành là 17.226 tỷ đồng, trong đó các NHTM mua 12.058 tỷ đồng, chiếm khoản 70%.
    - Vai trò phân phối, bảo lãnh phát hành: Tại một số thị trường tài chính lớn trên thế giới, các trung gian tài chính, trong đó có các NHTM đóng vai trò quan trọng trên thị trường trái phiếu với tư cách là đại lý sơ cấp (Primary Dealers) hoặc bảo lãnh phát hành.
    Tại Việt Nam, bảo lãnh phát hành là phương thức phổ biến nhất đối với trái phiếu Chính phủ. Với độ tín nhiệm cao và tiềm lực tài chính mạnh, các NHTM có ưu thế lớn khi tham gia bảo lãnh phát hành. Bên cạnh đó, trái phiếu Chính phủ còn được chào bán qua Trung tâm giao dịch chứng khoán và bán lẻ qua hệ thống Kho bạc Nhà nước.
    Tuy nhiên, Việt Nam chưa có hệ thống các đại lý sơ cấp. Việc hình thành hệ thống đại lý sơ cấp với sự tham gia của các NHTM sẽ góp phần đẩy nhanh và hiệu quả qúa trình phân phối trái phiếu Chính phủ.
    *Trên thị trường thứ cấp: Với vai trò là trung gian trên thị trường, các NHTM có thể thực hiện các nghiệp vụ sau:
    - Kinh doanh trái phiếu:
    Mới đưa vào hoạt động từ tháng 8/2005, hoạt động kinh doanh trái phiếu của NHNT với 13 đối tác là các NHTM và các công ty chứng khoán đã có những kết quả hết sức khả quan. Tính đến hết năm 2005, tổng doanh số giao dịch đạt khoảng 2.700 tỷ đồng, trong đó chiếm phần lớn là hoạt động bán mua lại (chiếm khoảng 2.670 tỷ đồng, tức là khoảng 99%). Do vậy có thể thấy rõ ràng hoạt động kinh doanh trái phiếu của NHNT thực chất là hoạt động chiết khấu, tạo thanh khoản cho thị trường.
    Bên cạnh đó, hoạt động kinh doanh trái phiếu, công trái với các nhà đầu tư nhỏ lẻ cũng có tiềm năng phát triển lớn, nhưng chưa được tổ chức thật sự chuyên nghiệp. Một ưu điểm nữa của hình thức kinh doanh này là không bị giới hạn bởi thời gian giao dịch của thị trường chứng khoán tập trung.
    - Sản phẩm phái sinh:
    Các NHTM có thể thực hiện các sản phẩm phái sinh như: hoán đổi, kỳ hạn, quyền chọn, hợp đồng tương lai đối với các trái phiếu, cổ phiếu trên thị trường. Ở đây, sự kết hợp liên thị trường giữa thị trường tiền tệ với thị trường chứng khoán sẽ cung cấp cho các nhà đầu tư nhiều công cụ để kinh doanh (đầu cơ) và bảo hiểm rủi ro, đồng thời tăng tính thanh khoản của thị trường.
    - Cho vay chứng khoán:
    Nghiệp vụ cho vay chứng khoán rất phổ biến đối với các TTCK phát triển. Tại Mỹ, Cục dự trữ liên bang (Fed) thực hiện nghiệp vụ này với các đại lý sơ cấp đối với trái phiếu Chính phủ. Nghiệp vụ này một mặt làm tăng thanh khoản của thị trường, mặt khác giúp Fed điều tiết được lượng cung tiền. Tài sản thế chấp thường là tiền mặt. Nghiệp vụ cho vay chứng khoán giữa các trung gian tài chính có phạm vi rộng hơn cả về danh mục chứng khoán cho vay cũng như danh mục tài sản thế chấp. Bên vay thế chấp tài sản khi nhận chứng khoán và phải trả lại chứng khoán, đồng thời nhận lại tài sản thế chấp khi đáo hạn. Việc cho vay chứng khoán thực sự góp phần làm tăng tính thanh khoản của thị trường, đồng thời có thể giúp các bên tham gia (đặc biệt là đối với các trung gian tài chính) tìm kiếm lợi nhuận thông qua việc kinh doanh chứng khoán đi vay hoặc nhận thế chấp.
    3. Mối quan hệ giữa hoạt động của NHTM và hoạt động của thi trường chứng khoán
    Với khoảng thời gian hình thành và hoạt động còn non trẻ song TTCK Việt Nam đã có những bước phát triển đáng kể.
    Tuy còn non trẻ, nhưng TTCK Việt Nam đã chứng tỏ là một kênh dẫn vốn quan trọng, phục vụ đắc lực cho công cuộc phát triển kinh tế của đất nước. Người ta thường cho rằng, khi TTCK có xu hướng tăng trưởng mạnh mẽ thì lượng chu chuyển vốn qua hệ thống NHTM bị giảm sút và ngược lại. Tuy nhiên, đặc thù của nền kinh tế Việt Nam với tiềm năng về vốn trong dân cư còn rất lớn thì nếu có sự tham gia của các NHTM vào TTCK sớm hơn và mạnh mẽ hơn thì TTCK còn có những bước phát triển ngoạn mục hơn nữa.
    Sau đây, nhóm em có tìm hiểu về vai trò của các NHTM trên thị trường chứng khoán. Từ đó đưa ra những kiến nghị và giải pháp nhằm thúc đẩy sự tham gia của các NHTM vào TTCK.

    1. Trên thị trường sơ cấp
    1.1. Vai trò phát hành
    Nhằm phục vụ cho mục tiêu tăng trưởng, nhu cầu vốn dài hạn thông qua phát hành trái phiếu của các NHTM là rất lớn. Cho đến nay, hoạt động phát hành trái phiếu của các NHTM chưa phải là hoạt động thường xuyên, liên tục. Tuy nhiên, đợt phát hành trái phiếu tăng vốn vừa qua của Ngân hành Ngoại thương (NHNT) đã chứng tỏ mối quan tâm lớn của thị trường đối với trái phiếu ngân hàng, đặc biệt là các NHTM hoạt động tốt có uy tín. Nhằm phục vụ cho tăng trưởng kinh tế, yêu cầu về mở rộng quy mô vốn của các NHTM càng đặt ra bức thiết. Việc các NHTM phát hành trái phiếu có ý nghĩa quan trọng: một mặt, nó góp phần tăng hàng hoá cho thị trường chứng khoán, mặt khác nó là một kênh dẫn vốn quan trọng cho các NHTM cho mục tiêu tăng trưởng của nền kinh tế.

    1.2. Vai trò đầu tư trực tiếp
    Với tiềm lực tài chính mạnh và khả năng sử dụng vốn ngắn hạn đầu tư dài hạn, các NHTM có thể đóng vai trò là nhà đầu tư trên thị trường trái phiếu, đặc biệt là đối với trái phiếu Chính phủ, vốn đòi hỏi tầm nhìn đầu tư trung và dài hạn. Trên thực tế, một số lượng lớn trái phiếu Chính phủ và công trái là do NHTM mua.

    1.3. Vai trò phân phối, bảo lãnh phát hành
    Tại một số thị trường tài chính lớn trên thế giới, các trung gian tài chính, trong đó có các NHTM đóng vai trò quan trọng trên thị trường trái phiếu với tư cách là đại lý sơ cấp (Primary Dealers) hoặc bảo lãnh phát hành.
    Tại Việt Nam, bảo lãnh phát hành là phương thức phổ biến nhất đối với trái phiếu Chính phủ. Với độ tín nhiệm cao và tiềm lực tài chính mạnh, các NHTM có ưu thế lớn khi tham gia bảo lãnh phát hành. Bên cạnh đó, trái phiếu Chính phủ còn được chào bán qua Trung tâm giao dịch chứng khoán và bán lẻ qua hệ thống Kho bạc Nhà nước.
    Tuy nhiên, Việt Nam chưa có hệ thống các đại lý sơ cấp. Việc hình thành hệ thống đại lý sơ cấp với sự tham gia của các NHTM sẽ góp phần đẩy nhanh và hiệu quả qúa trình phân phối trái phiếu Chính phủ.

    2. Trên Thị trường thứ cấp
    Với vai trò là trung gian trên thị trường, các NHTM có thể thực hiện các nghiệp vụ sau:
    2.1. Kinh doanh trái phiếu
    Có thể thấy rõ rằng hoạt động kinh doanh trái phiếu của NHNT thực chất là hoạt động chiết khấu, tạo thanh khoản cho thị trường. Bên cạnh đó, hoạt động kinh doanh trái phiếu, công trái với các nhà đầu tư nhỏ lẻ cũng có tiềm năng phát triển lớn, nhưng chưa được tổ chức thật sự chuyên nghiệp. Một ưu điểm nữa của hình thức kinh doanh này là không bị giới hạn bởi thời gian giao dịch của thị trường chứng khoán tập trung.

    2.2. Sản phẩm phái sinh
    Các NHTM có thể thực hiện các sản phẩm phái sinh như: hoán đổi, kỳ hạn, quyền chọn, hợp đồng tương lai đối với các trái phiếu, cổ phiếu trên thị trường. Ở đây, sự kết hợp liên thị trường giữa thị trường tiền tệ với thị trường chứng khoán sẽ cung cấp cho các nhà đầu tư nhiều công cụ để kinh doanh (đầu cơ) và bảo hiểm rủi ro, đồng thời tăng tính thanh khoản của thị trường.
    2.3. Cho vay chứng khoán
    Nghiệp vụ cho vay chứng khoán rất phổ biến đối với các TTCK phát triển. Tại Mỹ, Cục dự trữ liên bang (Fed) thực hiện nghiệp vụ này với các đại lý sơ cấp đối với trái phiếu Chính phủ. Nghiệp vụ này một mặt làm tăng thanh khoản của thị trường, mặt khác giúp Fed điều tiết được lượng cung tiền. Tài sản thế chấp thường là tiền mặt. Nghiệp vụ cho vay chứng khoán giữa các trung gian tài chính có phạm vi rộng hơn cả về danh mục chứng khoán cho vay cũng như danh mục tài sản thế chấp. Bên vay thế chấp tài sản khi nhận chứng khoán và phải trả lại chứng khoán, đồng thời nhận lại tài sản thế chấp khi đáo hạn. Việc cho vay chứng khoán thực sự góp phần làm tăng tính thanh khoản của thị trường, đồng thời có thể giúp các bên tham gia (đặc biệt là đối với các trung gian tài chính) tìm kiếm lợi nhuận thông qua việc kinh doanh chứng khoán đi vay hoặc nhận thế chấp.
    Từ đó ta thấy rằng: NHTM có vai trò rất lớn trong việc phát triển thị trường chứng khoán; (i) Vai trò của Ngân hàng thương mại trong việc tạo hàng hoá cho thị trường chứng khoán, (ii) vai trò trung gian chứng khoán, (iii) vai trò điều chỉnh cung cầu chứng khoán trên thị trường chứng khoán, (iv) vai trò trong việc cung cấp thông tin trên thị trường chứng khoán, (v) vai trò về định chế quản lý thị trường chứng khoán.

    II/ Hoạt động cua NHTM trên thi trường chứng khoán ở Việt Nam
    1. Sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam
    1.1. Quá trình hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam
    Sau nhiều năm chuẩn bị và chờ đợi, ngày 11-7-1998 Chính phủ đã ký Nghị định số 48/CP ban hành về chứng khoán và TTCK chính thức khai sinh cho Thị trường chứng khoán Việt Nam ra đời. Cùng ngày, Chính phủ cũng ký quyết định thành lập Trung tâm Giao dịch Chứng khoán đặt tại TP.HCM và Hà Nội.
    VN - Index là ký hiệu của chỉ số chứng khoán Việt Nam. VN - Index xây dựng căn cứ vào giá trị thị trường của tất cả các cổ phiếu được niêm yết.Với hệ thống chỉ số này, các nhà đầu tư có thể đánh giá và phân tích thị trường một cách tổng quát hơn. Chỉ số Việt Nam – Index so sánh giá trị thị trường hiện hành với giá trị thị trường cơ sở vào ngày sốc 28/7/2000, khi thị trường chứng khoán chính thức đi vào hoạt động.

    1.1.1 Giai đoạn 2000 – 2005: Giai đoạn chập chững biết đi của thị trường chứng khoán
    Sự ra đời của thị trường chứng khoán Việt Nam được đánh dấu bằng việc đưa vào vận hành Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh ngày 20/07/2000 và thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/07/2000. Ở thời điểm lúc bấy giờ, chỉ có 2 doanh nghiệp niêm yết 2 loại cổ phiếu (REE và SAM) với số vốn 270 tỷ đồng và một số ít trái phiếu Chính phủ được niêm yết giao dịch. Từ đó cho đến 2005, thị trường luôn ở trong trạng thái không phát triển. Ngày 8/3/2005, Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội (TTGDCK HN) chính thức đi vào hoạt động. Từ năm 2005 khi tỷ lệ nắm giữ của nhà đầu tư nước ngoài được nâng từ 30% lên 49%, cho thấy rằng thị trường chứng khoán Việt Nam đã có những bước khởi sắc mới. Trong 5 năm đầu tiên, dường như thị trường không thực sự thu hút được sự quan tâm của đông đảo công chúng và các diễn biến tăng giảm của thị trường chưa tạo ra tác động xã hội mở rộng để có thể ảnh hưởng tới sự vận hành của nền kinh tế cũng như tới cuộc sống của người dân.
    1.1.2 Giai đoạn 2006 : Sự phát triển đột phá của TTCK Việt Nam.
    Mốc thời gian kể từ đầu năm 2006 được coi là mang tính chất phát triển “đột phá”, tạo cho thị trường chứng khoán Việt Nam một diện mạo hoàn toàn mới với hoạt động giao dịch sôi động tại cả 3 “sàn”: Sở giao dịch thành phố Hồ Chí Minh, Trung tâm Giao dịch Hà Nội và thị trường OTC.
    Với mức tăng trưởng đạt tới 60% từ đầu đến giữa năm 2006 thị trường chứng khoán Việt Nam trở thành "điểm" có tốc độ tăng trưởng nhanh thứ 2 thế giới, chỉ sau Dim-ba-buê. Và sự bừng dậy của thị trường non trẻ này đang ngày càng "hút hồn" các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
    Số công ty niêm yết tăng gần 5 lần, từ 41 công ty năm 2005 đã lên tới 193 công ty, số tài khoản giao dịch đạt hơn 10 vạn gấp 3 lần năm 2005 và 30 lần so với 6 năm trước. Trong vòng một năm, chỉ số Vn-Index tăng hơn 500 điểm, từ hơn 300 điểm cuối 2005 lên 800 điểm cuối 2006.
    Năm 2006, kỷ lục mới của VN-Index được xác lập ở mốc 809,86 điểm. Với HASTC-Index là nỗ lực chạm mốc 260 điểm. Tính chung, so với đầu năm, chỉ số VN-Index đã có mức tăng trưởng tới 146% và HASTC-Index tăng tới 170%. Đây là những mức tăng rất ấn tượng của các con số trên thị trường chứng khoán Việt Nam.

    1.1.3 Giai đoạn 2007: Giai đoạn thị trường chứng khoán bùng nổ.
    Luật Chứng khoán có hiệu lực từ ngày 01/01/2007Tính đến ngày 2đã góp phần thúc đẩy thị trường phát triển và tăng cường khả năng hội nhập vào thị trường tài chính quốc tế. Tính công khai, minh bạch của các tổ chức được tăng cường. Ngày 08/12/2007, Sở giao dịch Chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh đã thực hiện được 248 phiên giao dịch với tổng khối lượng giao dịch đạt hơn 2,3 tỷ chứng khoán tương đương với tổng giá trị giao dịch toàn thị trường đạt 224.000 tỷ đồng, gấp 2 lần khối lượng và 2,8 lần giá trị giao dịch so với năm 2006.
    Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội thực hiện thành công 248 phiên giao dịch, với tổng khối lượng giao dịch toàn thị trường đạt 616,3 triệu chứng khoán tương đương với tổng giá trị giao dịch toàn thị trường đạt 63.859 tỷ đồng, tăng gấp 6 lần về khối lượng và 15,8 lần về giá trị giao dịch so với năm 2006. Quy mô giao dịch tăng trưởng mạnh khi mức giao dịch bình quân năm 2007 đạt 255 tỷ đồng/phiên trong khi năm 2006 chỉ đạt 19 tỷ đồng/phiên.

    1.1.4 Giai đoạn 2008: Cùng trong xu thế chung của nền kinh tế, Thị trường chứng khoán Việt Nam khép lại năm 2008 với sự sụt giảm mạnh.
    Nhìn lại thị trường sau 01 năm giao dịch, những điểm nổi bật của thị trường: Index giảm điểm, thị giá các loại cổ phiếu sụt giảm mạnh (nhiều mã cổ phần rơi xuống dưới mệnh giá), tính thanh khoản kém, sự thoái vốn của khối ngoại, sự can thiệp của các cơ quan điều hành và sự ảm đạm trong tâm lý các nhà đầu tư. Trong năm 2008, lượng cung tiếp tục được bổ sung đáng kể thông qua việc Chính phủ đẩy mạnh cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước, đặc biệt là các Doanh nghiệp quy mô lớn, kinh doanh hiệu quả và việc bán bớt cổ phần Nhà nước trong các Doanh nghiệp đã cổ phần hóa, chưa kể hàng loạt ngân hàng, Công ty chứng khoán, doanh nghiệp . phát hành trái phiếu, cổ phiếu để tăng vốn điều lệ, dẫn đến tình trạng thị trường chứng khoán có nguy cơ thừa hàng.

    1.1.5 Giai đoạn thị trường chứng khoán hiện nay
    Thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn tiếp tục đi xuống trong năm 2009. Chỉ số Vn-Index từ đầu năm đến nay hạ 22%, mức hạ kém nhất so với các thị trường châu Á khác. Những thông tin về lợi nhuận của các công ty không mấy tích cực. Tăng trưởng doanh số khoảng 40% so với cùng kỳ năm trước nhưng lợi nhuận hoạt động chỉ tăng 8%. Thua lỗ ở các khoản đầu tư địa ốc và chứng khoán đẩy lợi nhuận ròng giảm 25%. Trong số 329 công ty niêm yết, 23 công ty thua lỗ, trong đó có cả một số công ty trước đây từng được nhà đầu tư nước ngoài hất sức ưa chuộng như Công ty Cổ phần Cơ điện lạnh (REE) Tuy nhiên cũng có một số công ty công bố lợi nhuận ấn tượng, đây là những công ty có hoạt động kinh doanh đi theo hướng thế mạnh và không đầu tư vào thị trường bất động sản và ngân hàng.Một số nhà đầu tư mạo hiểm có thể tiếp tục tham gia vào thị trường với mục tiêu dài hạn, họ có thể mua một số cổ phiếu của các công ty tốt. Tuy nhiên theo một số đánh giá của HSBC thị trường chứng khoán Việt Nam năm nay sẽ vẫn khó khăn. Suốt 2 tháng đầu năm 2009, thị trường chứng khoán luôn trong tình trạng ảm đạm. Cảnh vắng lặng tại sàn giao dịch cho thấy thị trường chứng khoán đã không còn sức hấp dẫn đối với nhà đầu tư trong thời điểm này. Bởi trong suốt năm 2008, thị trường vẫn tiếp tục chuỗi ngày suy giảm với mức độ ngày càng trầm trọng hơn. Nhà đầu tư mất niềm tin vào thị trường, các ngân hàng bán cổ phiếu giải chấp tất cả những yếu tố này đã làm thị trường giảm.

    1.2. Thực trạng của thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay
    Sau gần 10 năm đưa vào hoạt động và phát triển thị trường chứng khoán có thể thấy rằng hệ thống pháp luật ngày càng được hoàn thiện nhằm đáp ứng được yêu cầu phát triển của thị trường và tăng cường hiệu quả quản lý, giám sát của cơ quan quản lý nhà nước, phù hợp với luật pháp, thong lệ quốc tế, tạo nền tảng cho thị trường chứng khoán Việt Nam khả năng hội nhập với các thị trường vốn quốc tế và khu vực; tăng cường tính công khai, minh bạch cho thị trường và nâng cao khả năng quản lý giám sát thị trường của cơ quan quản lý nhà nước. Quy mô trị trường có bước tăng trưởng mạnh mẽ, vững chắc, từng bước đóng vai trò là kênh dẫn vốn trung gian và dài hạn quan trọng, đóng góp tích cực cho sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
    Trước biến động của thị trường tài chính thế giới và những khó khăn của nền kinh tế trong nước, chỉ số giá chứng khoán đã sụt giảm liên tục trong năm 2008 và làm giảm mạnh mức vốn hóa thị trường. Khi nền kinh tế trong nước và thế giới bắt đầu hồi phục nhẹ từ quý II/2009, chỉ số giá chứng khoán đã bắt đầu tăng trở lại cùng với số lượng các công ty niêm yết trên thị trường cũng gia tăng nhanh chóng.
    Bên cạnh những thành tựu đạt được trong việc phát hành cổ phiếu và trái phiếu doanh nghiệp, công tác cổ phần hó doanh nghiệp nhà nước đã được huy động vốn từ công chúng đầu tư, góp phần thúc đẩy nhanh việc sắp xếp khi vực doanh nghiệp nhà nước theo tiến trình cải cách kinh tế của Chính phủ và huy động vốn cho ngân sách nhà nước.
    Thực tế, việc gắn kết công tác cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước với công tác tạo hang cho thị trường chứng khoán là nhân tố chủ dạo quyết định thành công trong việc tạo ra một nguồn hang phong phú, góp phần thúc đẩy tăng cường quy mô của thị trường. Hoạt động phát hành của các công ty đại chúng còn mang tính tự phát, không hoàn toàn dựa trên nhu cầu sử dụng vốn của doanh nghiệp, làm giảm hiệu qủ sử dụng vốn. Không ít tổ chức phát hành huy động vốn trên thị trường chứng khoán để đầu tư trở lại vào chứng khoán mà không phải để mở rộng sản xuất kinh doanh gây ra rủi ro mất vốn khi thị trường sụt giảm.
    Hoạt động phát hành thương phiếu cổ phiếu và cơ chế phát hành trái phiếu còn nhiều bất cập, công tác kế hoạch hóa phát hành trái phiếu chưa tốt, chưa có các tổ chức tạo lập thị trường trái phiếu cổ phiếu đúng nghĩa để đảm bảo thành công cho các đợt phát hành cũng như tạo tính thanh khoản cho thị trường thứ cấp; thiếu đường cong lợi suất chuẩn và tổ chức định mức tín nhiệm.
    Thị trường chứng khoán Việt Nam bắt đầu khởi sắc kể từ năm 2006 đến nay và đã có bước tăng trưởng mạnh mẽ cả về số lượng công ty niêm yết lẫn doanh số giao dịch. Tính đến cuối năm 2009, đã có 541 doanh nghiệp niêm yết cổ phiếu trên cả hai Sở giao dịch chứng khoán và bốn chứng chi quỹ đại chúng niêm yết, với tổng giá trị niêm yết đạt 127,489 nghìn tỷ đồng, tăng 66,5 lần so với cuối năm 2005. Tổng giá trị vốn hóa thị trường tính tại thời điểm ngày 31/12/2009 ước đạt 620,551 ngàn tỷ đồng tương đương với gần 38% GDP 2009 (nguồn của Ủy ban Chứng khoán Việt Nam). Thị trường chứng khoán đã có sự tăng trưởng không chỉ về quy mô niêm yết mà cả về tính thanh khoản của thị trường.
    Đồng thời với sự mở rộng của các thị trường chính thức, có sự quản lý với số lượng ngày càng lớn các tổ chức đăng ký niêm yết, đăng ký giao dịch là sự thu hẹp của thị tường tự do (thị trường OTC). Mặc dù còn nhiều loại cổ phiếu giao dịch trên thị trường OTC, chủ yếu từ các doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hóa, tuy nhiên, tính thanh khoản của thị trường này trong năm 2009 sụt giảm rõ rệt. Sự kém thanh khoản của thị trường này, cùng một số vụ bê bối trong hoạt động giao dịch vô hình chung đã dần thu hẹp thị trường OTC.
    Mặc dù đã có những bước phát triển nhảy vọt nhưng thị trường giao dịch cổ phiếu còn nhiều biến động và hạn chế về tính thanh khoản đặc biệt khi thị trường có dấu hiệu suy giảm. Bên cạnh đó hàng hóa trên thị trường niêm yết trên thị trường chứng khoán chưa đa dạng, chất lượng chưa cao chưa đáp ứng được nhu cầu đầu tư và phòng ngừa rủi ro của nhà đầu tư. Các dịch vụ tiện ích cho nhà đầu tư trên thị trường còn nghèo nàn (chưa có vay ký quỹ, bán trước ngày hoàn tất giao dịch ), tính minh bạch của thị trừong chưa đáp ứng được nhu cầu của công chúng đầu tư.
    Số lượng các nhà đầu tư tham gia thị trường chứng khoán ngày càng đông đảo cùng và với việc nhận thức và sự tham gia của cộng đồng vào thị trường chứng hoán ngày càng được nâng cao. Số lượng nhà đầu tư cá nhân và tổ chức, trong nước và ngoài nước đã gia tăng đáng kể. Tuy nhiên, hệ thống nhà đầu tư của chúng ta chưa đa dạng, không đảm bảo sự tăng trưởng một cách bền vững. Hệ thống nhà đầu tư tổ chức chưa phát triển làm hạn chế sự phát triển của thị trường chứng khoán mà đặc biệt là thị trường cổ phiếu, trái phiếu.
    Hệ thống các tổ chức kinh doanh, dịch vụ chứng khoán phát triêne mạnh mẽ về quy mô và năng lực nghiệp vụ, với hệ thống mạng lưới chi nhánh, phòng giao dịch trải khắp các tỉnh, thành phố lớn trong cả nước, góp phần giúp công chúng đầu tư tiếp cận dễ dàng với thị trường chứng khoán. Số lượng người hành nghề tăng nhanh, phù hợp với sự phát triển của các Công ty chứng khoán. Tuy nhiên, số lượng các tổ chức kinh doanh và cung cấp dịch vụ cho thị trường chứng khoán tăng quá nhanh, với năng lực và chuyên môn còn hạn chế, tiềm ẩn rủi ro hệ thống và không tương xứng với hiệu quả hoạt động chung của thị trường.
    Công tác quản lý Nhà nước và điều hành thị trường chứng khoán được thực hiện tương đối linh hoạt, bảo đảm thị trường chứng khoán vận hành an toàn và phát triển ổn định. Hoạt động quản lý và giám sát thị trường chứng khoán với trọng tâm lấy việc bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư là nòng cốt; các chính sách quản lý thị trường chứng khoán đã thể hiện mục tiêu tăng cường tính công khai, minh bạch, từng bứoc á dụng các thông lệ về quản trị công ty tốt, các chuẩn mực về kế toán và kiểm toán quốc tế và khuyến cáo của Tổ chức quốc tê các Ủy ban chứng khoán (IOSCO).
    Tuy đạt đựoc những thành tựu nhất định trong việc quản lý, vận hành và giám sát thị trường, công tác quản lý và điều hành thị trường chứng khoán trong thời gian qua vẫ còn một số tồn tại và hạn chế nhất định như: công tác ban hành các văn bản pháp luật, các chính sách điều hành thị trường chưa linh hoạt, còn bị động và chậm so với yêu cầu thực tiễn phát triển của thị trường chứng khoán; công tác quản lý, giám sát và cưỡng chế thực thi còn nhiều bất cập.

    2. Sự tham gia của Ngân hàng thương mại trên Thị trường chứng khoán
    Ngân hàng thương mại có vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam, cả với thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp.
    Người ta thường cho rằng, khi thị trường chứng khoán có xu hướng tăng trưởng mạnh mẽ thì lượng chu chuyển vốn qua hệ thống Ngân hàng thương mại bị giảm sút và ngược lại. Tuy nhiên, đặc thù của nền kinh tế Việt Nam với tiềm năng về vốn trong dân cư còn rất lớn thì nếu có sự tham gia của các ngân hàng thương mại vào thị trường chứng khoán sớm hơn và mạnh mẽ hơn thì thị trường chứng khoán còn có những bước phát triển ngoạn mục hơn nữa.
    Với khoảng 10 năm hình thành và hoạt động, thị trường chứng khoán Việt Nam đã có những bước phát triển đáng kể. Riêng trong năm 2005, chỉ số VNIndex đã tăng từ 237,23 lên 307,5, tức 30%. Tổng giá trị thị trường đạt 26.878 tỷ đồng, trong đó cổ phiếu chiếm 10,4%, trái phiếu chiếm 88,7% và chứng chỉ quỹ chiếm 0,9%.
    Tính đến tháng hết tháng 11-2009, đã có 430 cổ phiếu và chứng chỉ quỹ được niêm yết. Tổng giá trị vốn hóa thị trường lên tới hơn 669 nghìn tỷ đồng (39 tỷ USD), tương đương 55% GDP của năm 2008. Mức vốn hóa này tăng gần gấp 3 lần so với thời điểm cuối năm 2008.
    Năm 2009 cũng đánh dấu sự lên sàn của hàng loạt doanh nghiệp (trong đó có nhiều ngân hàng thương mại) lớn như Eximbank, Bảo Việt, Vietcombank và Vietinbank . Sự góp mặt của các “đại gia” này đồng nghĩa với việc nguồn cung trên thị trường ngày càng đa dạng hơn. Trong đó, Vietcombank giao dịch 112,3 triệu cổ phiếu, là doanh nghiệp có vốn hóa lớn nhất thị trường, với trên 56.000 tỷ đồng, gấp hơn 2 lần "quán quân" trước đó là ACB (28.000 tỷ đồng). Trong khi đó, Bảo Việt (BVH) niêm yết toàn bộ 573 triệu cổ phiếu và Vietinbank có 121,2 triệu cổ phiếu. Các “đại gia” là các ngân hàng thương mại này đều chào sàn thành công, đáp ứng được mong đợi của nhà đầu tư. Giá cổ phiếu các doanh nghiệp bảo hiểm và ngân hàng nhờ vậy đã tăng trong một thời gian khá dài và trở thành những cổ phiếu "nóng" trên thị trường.
    2.1. Ngân hàng thương mại tham gia với tư cách là tổ chức cung cấp dịch vụ thông qua các các công ty chứng khoán của mình
    Ngân hàng tham gia hoạt động kinh doanh chứng khoán trên các lĩnh vực như: hoạt động môi giới, hoạt động tự doanh, hoạt động tư vấn đầu tư và hoạt động tài chính khác, hoạt động quản lí danh mục đầu tư, hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán
    Hoạt động phân phối, bảo lãnh phát hành chứng khoán:
    Tại một số thị trường tài chính lớn trên thế giới, các trung gian tài chính, trong đó có các NHTM đóng vai trò quan trọng trên thị trường trái phiếu với tư cách là đại lý sơ cấp (Primary Dealers) hoặc bảo lãnh phát hành.
    Tại Việt Nam, bảo lãnh phát hành là phương thức phổ biến nhất đối với trái phiếu Chính phủ. Với độ tín nhiệm cao và tiềm lực tài chính mạnh, các NHTM có ưu thế lớn khi tham gia bảo lãnh phát hành. Bên cạnh đó, trái phiếu Chính phủ còn được chào bán qua Trung tâm giao dịch chứng khoán và bán lẻ qua hệ thống Kho bạc Nhà nước.
    Các công ty chứng khoán của các ngân hàng thương mại đều đăng ký thực hiện nghiệp vụ này và là nghiệp vụ quan trọng nhất trong giai đoạn hiện nay. Để thu hút người đầu tư, các công ty chứng khoán đã đầu tư khá tốt cơ sở vật chất cho hoạt động môi giới như xây dựng hệ thống sàn giao dịch rộng rãi với đầy đủ các thiết bị công bố thông tin như bảng giao dịch điện tử, bảng công bố thông tin, xây dựng website để giúp người đầu tư tiếp cận thông tin mọi lúc mọi nơi
    Ngoài ra, các công ty chứng khoán này đã thực hiện một số chính sách nhằm thu hút người đầu tư đến với công ty, như cung cấp dịch vụ tư vấn đầu tư miễn phí, đa dạng các hình thức nhận lệnh giao dịch (qua điện thoại, fax ), áp dụng chính sách thu phí linh hoạt theo hướng khuyến khích giao dịch (giảm phí môi giới cho khách hàng có giá trị giao dịch lớn theo từng lệnh hoặc theo cộng dồn định kỳ theo khoảng thời gian ), kết hợp với các ngân hàng thương mại cung cấp thêm một số dịch vụ phụ trợ cho khách hàng (cầm cố chứng khoán, ứng trước tiền bán chứng khoán). Nhờ đó, số lượng người đầu tư đến mở tài khoản giao dịch tại các công ty chứng khoán và giá trị giao dịch chứng khoán trong thời gian qua đã không ngừng tăng lên.
    Có thể nói, đây là nghiệp vụ được các công ty chứng khoán của các ngân hàng thương mại thực hiện tốt nhất trong giai đoạn đầu khi thị trường đi vào hoạt động, các công ty chứng khoán này đã thể hiện được vai trò trung gian trên thị trường chứng khoán, kết nối giữa người đầu tư có vốn với các doanh nghiệp có nhu cầu huy động vốn cho đầu tư phát triển.
    Dự thảo Luật các tổ chức tín dụng sửa đổi có quy định sẽ hạn chế các ngân hàng bảo lãnh hoặc mua bán trái phiếu doanh nghiệp, trong khi hiện nay các ngân hàng đang là thành viên tích cực nhất của thị trường. Bên cạnh đó với quy mô vốn như hiện nay, chỉ có các ngân hàng thương mại mới có khả năng bảo lãnh các đợt phát hành trái phiếu lớn với giá trị hàng nghìn tỷ đồng. Quy định của dự thảo vô hình chung loại bỏ thành viên có khả năng nhất của thị trường đứng ra bảo lãnh phát hành trái phiếu.
    Với trình độ phát triển của của thị trường Việt Nam và đặc biệt khi xét đến mục tiêu tăng vốn của các ngân hàng thương mại trong thời gian tới để có thể có được những ngân hàng với quy mô vốn tương đương như các ngân hàng trong khu vực thì việc các ngân hàng thương mại tham gia thành lập các công ty con và công ty liên kết để thực hiện nghiệp vụ này là khó khả thi. Các nhà đầu tư cho rằng nên bổ sung cho ngân hàng thương mại được mua bán trái phiếu Chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp.
    Hoạt động đầu tư trực tiếp và cho vay chứng khoán:
    - Đầu tư trực tiếp: Với tiềm lực tài chính mạnh và khả năng sử dụng vốn ngắn hạn đầu tư dài hạn, các ngân hàng thương mại có thể đóng vai trò là nhà đầu tư trên thị trường trái phiếu, đặc biệt là đối với trái phiếu Chính phủ, vốn đòi hỏi tầm nhìn đầu tư trung và dài hạn. Theo quy định trước đây, riêng với hoạt động ngân hàng đầu tư, được chia thành 2 nhóm nghiệp vụ, nhóm được trực tiếp thực hiện hoặc phải triển khai thông qua các công ty con. Ngân hàng thương mại được phép trực tiếp tư vấn tài chính doanh nghiệp, mua bán, sáp nhập doanh nghiệp và tư vấn đầu tư chứng khoán; lưu ký chứng khoán, mua bán trái phiếu Chính phủ.
    Trên thực tế, một số lượng lớn trái phiếu Chính phủ và công trái là do ngân hàng thương mại mua. Trong năm 2005, tổng lượng trái phiếu Chính phủ phát hành là 17.226 tỷ đồng, trong đó các ngân hàng thương mại mua 12.058 tỷ đồng, chiếm khoản 70%.
    - Cho vay chứng khoán: Nghiệp vụ cho vay chứng khoán rất phổ biến đối với các thị trường chứng khoán phát triển. Tại Mỹ, Cục dự trữ liên bang (Fed) thực hiện nghiệp vụ này với các đại lý sơ cấp đối với trái phiếu Chính phủ. Nghiệp vụ này một mặt làm tăng thanh khoản của thị trường, mặt khác giúp Fed điều tiết được lượng cung tiền. Tài sản thế chấp thường là tiền mặt. Nghiệp vụ cho vay chứng khoán giữa các trung gian tài chính có phạm vi rộng hơn cả về danh mục chứng khoán cho vay cũng như danh mục tài sản thế chấp. Bên vay thế chấp tài sản khi nhận chứng khoán và phải trả lại chứng khoán, đồng thời nhận lại tài sản thế chấp khi đáo hạn. Việc cho vay chứng khoán thực sự góp phần làm tăng tính thanh khoản của thị trường, đồng thời có thể giúp các bên tham gia (đặc biệt là đối với các trung gian tài chính) tìm kiếm lợi nhuận thông qua việc kinh doanh chứng khoán đi vay hoặc nhận thế chấp.
    Trong dự thảo Luật các tổ chức tín dụng lần này cũng có những quy định liên quan tới hoạt động đầu tư và cho vay chứng khoán của ngân hàng. Theo đó, Ngân hàng thương mại không được thực hiện nghiệp vụ này một cách trực tiếp mà phải thông qua các công ty con của mình. Hiện tại thì ngân hàng vẫn được cho vay và đầu tư chứng khoán nhưng bị giới hạn không quá 3% vốn điều lệ kể cả đầu tư vốn trực tiếp vào các ngân hàng nhỏ hơn hay tham gia thành lập các ngân hàng con
    Với quy định mới, nếu muốn tham gia thị trường chứng khoán trong lĩnh vực này họ phải thông qua công ty con. Và việc tham gia này cũng không dễ chút nào, khi mà họ bị ràng buộc bởi quy định không được cấp tín dụng cho các doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh chứng khoán do mình nắm quyền kiểm soát. Những người theo quan điểm thận trọng thì cho rằng, quy định theo dự thảo là hợp lý, nhằm khu biệt những rủi ro thị trường, tránh ảnh hưởng tới an toàn của ngân hàng và toàn hệ thống. Trong trường hợp mảng kinh doanh, đầu tư chứng khoán thua lỗ, chỉ ảnh hưởng tới công ty con chứ ít ảnh hưởng tới ngân hàng mẹ, qua đó đảm bảo sự an toàn của toàn hệ thống.
    Thực tế cho thấy sau giai đoạn ào ạt cho vay chứng khoán, đến đầu 2008, phần lớn các ngân hàng đều báo lỗ vì mảng này. Các công ty chứng khoán có mảng tự doanh chiếm tỷ lệ lớn cũng lỗ nặng. Cuộc khủng hoảng tài chính thế giới cũng là một minh chứng cho thấy rủi ro từ hoạt động ngân hàng đầu tư là cực lớn. Hàng loạt ngân hàng đầu tư lừng lẫy một thời của Mỹ đã phải dừng hoạt động, sáp nhập với đơn vị khác hoặc chuyển đổi thành mô hình ngân hàng đa năng.
    Hoạt động môi giới chứng khoán: Công ty môi giới chứng khoán của các ngân hàng thương mại có phạm vi rộng hơn môi giới của một cá nhân (chỉ đơn thuần là trung gian mua bán chứng khoán) bao gồm 3 nghiệp vụ cơ bản:
    - Làm trung gian môi giới mua bán chứng khoán cho các thân chủ, thông tin tư vấn: Theo tổng kết doanh thu của các công ty chứng khoán thì doanh thu từ hoạt động môi giới chứng khoán chỉ chiếm 3,14% tổng doanh thu, đây là nghiệp vụ cơ bản của các công ty chứng khoán mức doanh thu này là chưa phản ánh được vai trò của các công ty chứng khoán.
    Là một trong những công ty chứng khoán đầu tiên hoạt động trên thị trường chứng khoán Việt Nam, hoạt động môi giới chứng khoán của công ty VietinBankSc đã có sự tăng trưởng mạnh mẽ. Số lượng tài khoản được mở mới trong năm tại VietinBankSc là hơn 11.000 tài khoản đưa số lượng tài khoản của các nhà đầu tư mở tài khoản giao dịch tại VietinBankSc lên hơn 30.000 tài khoản tính đến tháng 4 năm 2009 và chiếm 6.5% tổng số tài khoản giao dịch trên thị trường. Nhằm mở rộng mạng lưới giao dịch, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trên khắp cả nước, VietinBankSc đã thực hiện chiến lược mở 96 điểm hỗ trợ giao dịch chứng khoán.
    - Phát hành hộ chứng khoán : Về lý thuyết, ngân hàng thương mại có thể phát hành hộ chứng khoán cho các công ty cổ phần mới thành lập để có vốn hoặc cho các công ty cổ phần đang hoạt động muốn tăng, bổ sung cho vốn, hoặc cho chính phủ. Các công ty hoặc Chính phủ muốn phát hành chứng khoán có thể nhờ ngân hàng thương mại làm đại lý phát hành và ngân hàng hưởng hoa hồng do người phát hành trả.
    + Kinh doanh trái phiếu: Mới đưa vào hoạt động từ tháng 8/2005, hoạt động kinh doanh trái phiếu của NHNT với 13 đối tác là các NHTM và các công ty chứng khoán đã có những kết quả hết sức khả quan. Tính đến hết năm 2005, tổng doanh số giao dịch đạt khoảng 2.700 tỷ đồng, trong đó chiếm phần lớn là hoạt động bán mua lại (chiếm khoảng 2.670 tỷ đồng, tức là khoảng 99%). Do vậy có thể thấy rõ ràng hoạt động kinh doanh trái phiếu của NHNT thực chất là hoạt động chiết khấu, tạo thanh khoản cho thị trường.
    Bên cạnh đó, hoạt động kinh doanh trái phiếu, công trái với các nhà đầu tư nhỏ lẻ cũng có tiềm năng phát triển lớn, nhưng chưa được tổ chức thật sự chuyên nghiệp. Một ưu điểm nữa của hình thức kinh doanh này là không bị giới hạn bởi thời gian giao dịch của thị trường chứng khoán tập trung.
    Sở dĩ ngân hàng thương mại có khả năng làm được nghiệp vụ này là do ngân hàng có mạng lưới hoạt động rộng khắp cả nước, có quan hệ quan thuộc và gần gũi với nhiều khách hàng, với sự hiểu biết và năng lực phân tích phán đoán mọi mặt có liên quan đến phát hành chứng khoán hộ sẽ tiết kiệm được chi phí phát hành.
    - Kinh doanh mua bán chứng khoán để kiếm lời:
    Mua bán kiếm lời từ những sự thay đổi rất nhỏ trong giá chứng khoán, nhất là những lúc thị trường chứng khoán sôi động, lúc này ngân hàng thương mại đóng vai trò là những thương gia chứng khoán.
    Ở thị trường chứng khoán Anh, Mỹ luật pháp phân biệt hai loại người này rất rõ. Một công ty làm dịch vụ môi giới thì không được kinh doanh chứng khoán kiếm lời và ngược lại. Còn ở nước ta, trước đây, theo nghị định số 72/CP năm 1994 của Chính phủ thì chỉ có ngân hàng đầu tư và phát triển phát hành chứng khoán cho chính phủ, thông qua kho bạc hoặc ngân hàng nhà nước. Sau này theo quy định tại Luật các tổ chức tín dụng 1997 và Luật sửa đổi bổ sung năm 2004 thì cho phép các ngân hàng thương mại được thực hiện nghiệp vụ này.
    Tuy nhiên, trong dự thảo Luật các tổ chức tín dụng mới đây, Ngân hàng nhà nước đã đưa ra quan điểm là ngân hàng thương mại không được mua, nắm giữ cổ phiếu của các tổ chức tín dụng khác, trừ trường hợp nắm giữ cổ phiếu do xử lý nợ hoặc theo chỉ định của Ngân hàng Nhà nước để xử lý tổ chức tín dụng gặp khó khăn có nguy cơ đổ vỡ. Trong trường hợp nắm giữ cổ phiếu do xử lý nợ, ngân hàng thương mại phải bán số cổ phiếu này trong vòng 06 tháng, kể từ ngày xử lý tài sản bảo đảm là cổ phiếu. Do đó, các ngân hàng sẽ thông qua các công ty con để thực hiện hoạt động này.
    Sản phẩm phái sinh:
    Các ngân hàng thương mại có thể thực hiện các sản phẩm phái sinh như: hoán đổi, kỳ hạn, quyền chọn, hợp đồng tương lai đối với các trái phiếu, cổ phiếu trên thị trường. Ở đây, sự kết hợp liên thị trường giữa thị trường tiền tệ với thị trường chứng khoán sẽ cung cấp cho các nhà đầu tư nhiều công cụ để kinh doanh (đầu cơ) và bảo hiểm rủi ro, đồng thời tăng tính thanh khoản của thị trường.
    2.2. Ngân hàng thương mại tham gia vào thị trường chứng khoán với tư cách là chủ thể phát hành chứng khoán
    Các ngân hàng tham gia hoạt động với tư cách là người phát hành và bán cổ phiếu của mình (ngân hàng thương mại cổ phần). Các ngân hàng phát hành cổ phiếu để tạo nguồn vốn khi mới thành lập hoặc tăng vốn bổ sung thêm trong quá trình hoạt động.
    Nhằm phục vụ cho mục tiêu tăng trưởng, nhu cầu vốn dài hạn thông qua phát hành trái phiếu của các NHTM là rất lớn. Cho đến nay, hoạt động phát hành trái phiếu của các NHTM chưa phải là hoạt động thường xuyên, liên tục. Tuy nhiên, đợt phát hành trái phiếu tăng vốn vừa qua của Ngân hành Ngoại thương (NHNT) đã chứng tỏ mối quan tâm lớn của thị trường đối với trái phiếu ngân hàng, đặc biệt là các NHTM hoạt động tốt có uy tín. Nhằm phục vụ cho tăng trưởng kinh tế, yêu cầu về mở rộng quy mô vốn của các NHTM càng đặt ra bức thiết. Việc các NHTM phát hành trái phiếu có ý nghĩa quan trọng: một mặt, nó góp phần tăng hàng hoá cho thị trường chứng khoán, mặt khác nó là một kênh dẫn vốn quan trọng cho các NHTM cho mục tiêu tăng trưởng của nền kinh tế.
    Bên cạnh đó, thị trường chứng khoán sốt nóng, cổ phiếu ngân hàng luôn là hàng được săn đón nhiều nhất trên sàn tập trung cũng như OTC. Một số nhà băng nhân cơ hội hiếm có đang tăng vốn ồ ạt bằng cách phát hành thêm cổ phiếu. Thực tế các ngân hàng thương mại cổ phần ở nước ta trong thời gian vừa qua đã tạo ra cho Thị trường chứng khoán một khối lượng hàng hóa không nhỏ.
    Đặc biệt trước áp lực huy động vốn phù hợp với quy định tại Nghị định 141/2006/NĐ-CP của Chính phủ về ban hành danh mục mức vốn pháp định của các tổ chức tín dụng, chỉ trong gần 2 tháng qua, các ngân hàng đã thực hiện hàng loạt kế hoạch phát hành cổ phiếu tăng vốn điều lệ. Chẳng hạn, Maritime Bank chuẩn bị phát hành 200 triệu cổ phiếu để tăng vốn điều lệ từ 3.000 tỷ đồng lên 5.000 tỷ đồng, với giá phát hành 13.000 đồng/cổ phiếu và sẽ hoàn tất kế hoạch này trong tháng 10/2010.
    Cũng trong tháng 10/2010, HDBank tăng vốn điều lệ từ 1.550 tỷ đồng lên 3.500 tỷ đồng. Lộ trình tăng vốn của HDBank sẽ gồm hai đợt. Đợt đầu, HDBank phát hành cổ phiếu tăng vốn từ 1.550 tỷ đồng lên 2.000 tỷ đồng thông qua việc bán 45 triệu cổ phần cho cổ đông hiện hữu và CBNV Ngân hàng. Đợt hai, HDBank sẽ tăng vốn từ 2.000 tỷ đồng lên 3.500 tỷ đồng thông qua việc phát hành 155 triệu cổ phần, trong đó, HDBank chào bán riêng lẻ 50 triệu cổ phần cho cổ đông chiến lược trong và ngoài nước, phần còn lại vẫn ưu tiên dành cho cổ đông hiện hữu và CBNV. Giá chào bán (cho cổ đông hiện hữu và CBNV) là 10.000 đồng/cổ phần .
    Nhiều ngân hàng cho biết, ngoài việc đáp ứng lộ trình tăng vốn theo quy định tại Nghị định trên, tăng vốn điều lệ là yêu cầu tất yếu để nâng cao năng lực tài chính trong bối cảnh hội nhập, tạo điều kiện thuận lợi mở rộng quy mô hoạt động, đầu tư cơ sở vật chất, công nghệ, đa dạng sản phẩm dịch vu . Mặt khác, đây cũng là điều kiện để thu hút khách hàng, giúp các ngân hàng đứng vững trước rủi ro, tăng trưởng nhanh hơn về quy mô kinh doanh và khả năng sinh lời. Tuy nhiên, trong điều kiện thị trường hiện nay, để thực hiện được mục tiêu trên là bài toán "hóc búa" đối các nhiều ngân hàng.
    Lượng cổ phiếu được các nhà băng phát hành ra thị trường trong năm nay khá lớn, cộng với diễn biến không mấy thuận lợi của TTCK đã khiến nguồn cung cổ phiếu ngân hàng trở nên áp đảo cầu. Giá cổ phiếu ngân hàng từ đó khó có thể được cải thiện, thậm chí sụt giảm và mờ nhạt dần trong danh mục chọn đầu tư của nhà đầu tư.
    Đáng chú ý, một số nhà băng có cổ đông là các tập đoàn, doanh nghiệp nhà nước chi phối đang phải đối mặt với việc "thoái vốn" của các cổ đông này. Đơn cử như Navibank, có cổ đông lớn là Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex). Tập đoàn này đã quyết định thoái vốn tại Ngân hàng. Vì thế, dù đã nhanh chóng đưa cổ phiếu lên sàn chứng khoán Hà Nội (HNX), nhưng việc gọi vốn đủ để đáp ứng lộ trình của Nghị định 141 vẫn có khó khăn nhất định đối với Ngân hàng.
    Giá cổ phiếu ngân hàng không những khó được cải thiện mà còn sụt giảm dần trong 3 tháng qua kể từ khi TTCK trở nên ảm đảm do tác động các chính sách tài chính – tiền tệ thắt chặt mà cụ thể là các quy định của Thông tư 13/2010/TT-NHNN.
    Vì vậy, giá cổ phiếu ngân hàng phát hành mới dù chỉ được niêm yết bằng mệnh giá (ở nhà băng nhỏ) và cao hơn một chút tại một số ngân hàng lớn, nhưng các nhà đầu tư vẫn chưa quan tâm bỏ vốn mua trước diễn biến của TTCK hiện nay. Hiện giá cổ phiếu của những ngân hàng quy mô vừa và nhỏ như OCB, HDBank, Navibank, WesternBank, VietA Bank, . giao dịch chỉ bằng mệnh giá.
    2.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong hoạt động của Ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán
    * Nguyên nhân xuất phát từ chính các ngân hàng thương mại
    Nhiều hoạt động trên thị trường chứng khoán của ngân hàng thương mại không đạt hiệu quả.
    Ví dụ như tuy mức doanh thu từ hoạt động môi giới chứng khoán thấp song các công ty chứng khoán này lại bị các khách hàng của mình phản ánh là phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư, bỏ nhiều lệnh hoặc thực hiện sai lệnh của khách hàng. Vấn đề này được dư luận đặc biệt là các nhà đầu tư quan tâm vì nhiều nhà đâu tư đã bị chính các công ty chứng khoán mà mình là khách hàng gây thiệt hại.
    Đồng thời, "Đã xuất hiện tình trạng ngân hàng tăng vốn ồ ạt nhằm trục lợi lúc giá lên cao, phục vụ lợi ích của nhóm nhỏ cổ đông trong ngân hàng mà không quan tâm tới lợi ích của công chúng. Một số ngân hàng mạng lưới hoạt động còn ít, dịch vụ chưa có gì, nhưng thay vì phải tập trung mở rộng mạng lưới, phát triển dịch vụ, huy động vốn để phục vụ nền kinh tế thì họ lại ồ ạt phát hành cổ phiếu", Vụ trưởng Vụ Các ngân hàng (Ngân hàng Nhà nước) Kiều Hữu Dũng lo ngại.
    Bên cạnh đó, tình trạng chậm công bố báo cáo tài chính quý so với quy định bắt buộc vốn là “chuyện thường ngày ở huyện” trên thị trường chứng khoán Việt Nam, trong khi nguyên tắc quan trọng của hoạt động này là minh bạch hóa, cho nên tình trạng này đã gây nên sự cản trở cho sự phát triển của thị trường chứng khoán.
    Mặt khác, hiện nay cụ thể, nhiều tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động môi giới chứng khoán; hoặc công ty tài chính thực hiện ủy thác đầu tư chứng khoán , mà không chịu sự quản lý nhà nước của cơ quan chức năng. Điều này làm ảnh hưởng tới sự minh bạch của thị trường, quyền lợi của nhà đầu tư và không có căn cứ pháp lý để xử lý khi có vi phạm xảy ra. Do đó ảnh hưởng nhiều đến việc tham gia hoạt động vào thị trường chứng khoán của ngân hàng thương mại.
    * Sự tác động của chính sách
    Giá cổ phiếu ngân hàng không những khó được cải thiện mà còn sụt giảm dần trong 3 tháng qua kể từ khi TTCK trở nên ảm đảm do tác động các chính sách tài chính – tiền tệ thắt chặt mà cụ thể là các quy định của Thông tư 13/2010/TT-NHNN. Hơn nữa, từ nửa cuối tháng 10-2009, Ngân hàng Nhà nước đã yêu cầu các ngân hàng phải chấm dứt cho vay chứng khoán.
    Vì vậy, giá cổ phiếu ngân hàng phát hành mới dù chỉ được niêm yết bằng mệnh giá (ở nhà băng nhỏ) và cao hơn một chút tại một số ngân hàng lớn, nhưng các nhà đầu tư vẫn chưa quan tâm bỏ vốn mua trước diễn biến của TTCK hiện nay. Hiện giá cổ phiếu của những ngân hàng quy mô vừa và nhỏ như OCB, HDBank, Navibank, WesternBank, VietA Bank, . giao dịch chỉ bằng mệnh giá.
    Chính điều này đã buộc một số nhà băng thông qua kế hoạch niêm yết cổ phiếu trên sàn chứng khoán chính thức đầu năm 2010 phải hoãn lại. Đơn cử như DongA Bank, trong kỳ ĐHCĐ thường niên đầu năm nay, Ngân hàng đã thông qua kế hoạch niêm yết cổ phiếu trên sàn chứng khoán TP. HCM (HOSE) sau khi tăng vốn điều lệ lên 4.500 tỷ đồng. Thế nhưng, ông Trần Phương Bình, Tổng giám đốc DongA Bank cho biết, đến thời điểm này, Ngân hàng vẫn chưa có lộ trình cụ thể cho việc niêm yết cổ phiếu trên sàn chứng khoán chính thức. Hiện tại, Ngân hàng vẫn đang trong quá trình hoàn tất kế hoạch tăng vốn điều lệ lên 4.500 tỷ đồng.
    Theo đánh giá của TS Lê Xuân Nghĩa, Phó chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia, khi các quy định của Thông tư 13/2010/TT-NHNN đi vào thực tế cuộc sống, lợi nhuận của ngân hàng sẽ khó kiếm hơn so với trước đây.
    Hoạt động của ngành này không còn được xem là siêu lợi nhuận như trước, trong khi đó, vốn điều lệ của nhà băng liên tục được điều chỉnh tăng, dẫn đến áp lực về cổ tức.
    * Sự biến động của thị trường chứng khoán
    Cuộc khủng hoảng tài chính thế giới cũng là một minh chứng cho thấy rủi ro từ hoạt động đầu tư của ngân hàng là rất lớn. Hàng loạt ngân hàng đầu tư lừng lẫy một thời của Mỹ đã phải dừng hoạt động, sáp nhập với đơn vị khác hoặc chuyển đổi thành mô hình ngân hàng đa năng càng khiến cho những cảnh báo từ hoạt động này lớn lên và Ngân hàng Nhà nước quyết tâm siết chặt.
    Chính sách tài khóa, tiền tệ nới lỏng và gói kích thích kinh tế năm 2009 của Chính phủ là động lực chính để TTCK phục hồi. Tuy nhiên, do những căng thẳng trên thị trường ngoại hối, nguy cơ lạm phát và nợ Chính phủ gia tăng nên trong hai tháng cuối năm 2009, chính sách tiền tệ bắt đầu có dấu hiệu thắt chặt.
    Cũng theo ông Trần Phương Bình, Tổng giám đốc DongA Bank thì "Sở dĩ DongA Bank chưa đưa cổ phiếu lên sàn HOSE là vì chúng tôi nhận thấy diễn biến thị trường chứng khoán chưa được thuận lợi và phù hợp để Ngân hàng thực hiện kế hoạch này. Mục đích của việc niêm yết cổ phiếu trên sàn chứng khoán chính thức là nâng cao tính thanh khoản cho cổ phiếu. Song với tình hình thị trường chứng khoán hiện nay, cổ phiếu niêm yết hay chưa cũng rơi vào tình trạng thanh khoản yếu".
    Theo dự báo của nhiều nhà phân tích chứng khoán - tài chính, khả năng phục hồi của cổ phiếu ngân hàng chưa thể kỳ vọng sớm. Một phần, do tình hình kinh tế còn có những khó khăn nhất định, ảnh hưởng đến hoạt động ngân hàng trong thời điểm hiện tại cũng như ở tương lai. Do đó, áp lực giảm giá đối với cổ phiếu ngân hàng sẽ còn, nhất là với một lượng cổ phiếu lớn đã hoặc đang được phát hành.
    Bên cạnh đó, sự biến động của thị trường chứng khoán, cũng như thị trường vàng, thị trường ngoại tệ ở Việt Nam, không theo một quy luật nào đã cho thấy những bất ổn của thị trường phát sinh từ chính những yếu tố nội tại. Thị trường tài chính bị phân khúc, chưa có sự minh bạch cũng như thông tin chưa được cập nhật chuẩn xác đến NĐT, trong khi yếu tố tâm lý luôn bị chi phối nặng nề bởi các tin đồn. Trên thị trường vẫn có khoảng trống pháp lý cho đầu cơ, lũng đoạn.
    III.Một số giải pháp và phương hướng hoàn thiện
    1.Đối với Nhà nước và các Cơ quan quản lý thị trường
    1.1 Hoàn thiện khung pháp lý cho TTCK Việt Nam và công tác pháp chế của UBCKNN
    Luật Chứng khoán được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 29-6-2006, có hiệu lực thi hành từ 01-01-2007. Qua hơn ba năm thực hiện, Luật Chứng khoán đã tạo ra khuôn khổ pháp lý cao nhất, từ đó loại bỏ nhiều mâu thuẫn, khác biệt với các văn bản pháp lý hiện hành, từng bước tạo ra hành lang pháp lý tương đối đồng bộ. Tuy nhiên, sau một thời gian phát triển, hoạt động về chứng khoán và thị trường chứng khoán có những bước phát triển mới, đòi hỏi phải bổ sung các quy định pháp luật cho phù hợp.
    Trong Dự án Luật Chứng khoán sửa đổi, UBCK Nhà nước đang triển khai xây dựng dự thảo Luật sửa đổi, theo chương trình xây dựng Luật của Quốc hội năm 2010 và dự kiến thông qua vào năm 2011. Luật Chứng khoán sửa đổi sẽ điều chỉnh và bổ sung một số nội dung cho phù hợp với tình hình thị trường và các cam kết hội nhập kinh tế, quốc tế của Việt Nam, đồng bộ với các Luật khác để tạo ra sự thống nhất về khuôn khổ pháp lý.
    Dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật chứng khoán lần này bao gồm sáu nội dung cơ bản, đó là hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ; chào bán chứng khoán ra công chúng; chào mua công khai; công ty chứng khoán , công ty quản lý quỹ và công bố thông tin trên thị trường chứng khoán. Ngoài các nội dung trọng tâm trên, Dự thảo cũng đề cập đến một số vấn đề liên quan như việc xử lý vi phạm trên thị trường chứng khoán, các chi tiêu an toàn tài chính đối với các công ty chứng khoán và công ty quản lý quỹ.
    Đại diện của Hiệp hội kinh doanh chứng khoán Việt Nam nhận định, các vấn đề mà dự thảo đưa ra để sửa đổi, bổ sung là hoàn toàn phù hợp. Hiện tại, có nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước lợi dụng việc phát hành riêng lẻ để phân phối cổ phiếu ra đại chúng thông qua việc mua đi, bán lại quyền mua cổ phần hoặc phát hành cho một số đối tượng không phù hợp “chẳng theo luật nào” và không bảo đảm quyền lợi cho các cổ đông, đặc biệt là các cổ đông nhỏ, từ đó phát sinh các tranh chấp, tiềm ẩn các rủi ro trên thịtrường chứng khoán. Do đó cần có quy định cụ thể về vấn đề này để đảm bảo quyền lợi cho các cổ đông. Song đại diện này cũng cho rằng, nên đưa phần quản lý nhà nước vào nội dung sửa đổi, bổ sung để thể hiện một cách rõ ràng hơn quyền và trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước trong hoạt động chứng khoán.
    Liên quan đến việc hoàn thiện khung pháp lý, ổn định thị trường thời gian tới, UBCK Nhà nước còn tập trung vào xây dựng: Đề án chiến lược phát triển TTCK giai đoạn 2010 -2020; thay thế Nghị định của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và TTCK . Theo đó, Đề án chiến lược phát triển TTCK giai đoạn 2010 -2020 được soạn thảo dựa trên nguyên tắc gắn kết với Đề án phát triển Thị trường vốn Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Dự kiến đề án sẽ trình Chính phủ vào cuối năm 2010.
    Việc hoàn thiện khung pháp lý và xây dựng chính sách cho TTCK cũng như thực hiện các giải pháp thời gian tới sẽ góp phần vào việc nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật về TTCK và hoạt động chứng khoán; đảm bảo tính răn đe, giáo dục của pháp luật đối với các chủ thể tham gia thị trường; bảo đảm thị trường ngày càng phát triển an toàn, hiệu quả và hoạt động công khai, minh bạch; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia thị trường. Qua đó cũng tạo điều kiện thuận lợi, khuyến khích và thúc đẩy sự tham gia của các NHTM trên TTCK.

    1.2. Hiện đại hóa các hệ thống và nâng cấp hoạt động của TTCK
    Hoàn thiện hệ thống giao dịch theo hướng đảo bảo sự kết hợp giữa các điều kiện sẵn có của môi trường kinh tế với nhu cầu của các đối tượng tiềm năng tham gia TTCK, trong đó tập trung chủ yếu vào các yếu tố như: Tính ổn định của thị trường; tính đơn giản; tính thích nghi; tính bảo mật.Trong thời gian qua, mặc dù hệ thống giao dịch của TTDGCK được xây dựng từ các nguồn cung cấp khác nhau nhưng bước đầu đã đáp ứng được các nhu cầu gia dịch chứng khoán trên thị trường. Tuy nhiên, hệ thống giao dịch hiện tại sẽ khó có thể đáp ứng được yêu cầu cho giao dịch sắp tới, đòi hỏi chúng ta cần phải thiết kế, xây dựng hệ thống mang tính đồng bộ, có công suất lớn và đảm bảo sự tương thích giữa các hệ thống và có tính mở để có thể nâng cấp và khả năng kết nối với các hệ thống khác từ công ty chứng khoán, trung tâm lưu ký, trung tâm thanh toán .
    Hiện đại hóa hệ thống giám sát thị trường, xây dựng hệ thống giám sát tự động kết nối với các hệ thống giao dịch, công bố thông tin, lưu ký, thanh toán.
    Nâng cấp hệ thống công bố thông tin, đảm bảo có một hệ thống công bố thông tin có thể truyền phát rộng và truy cập dễ dàng cho các đối tượng tham gia thị trường, đặc biệt là các nhag đàu tư. Mở rộng phạm vi thông tin cần công bố trên cở sở xây dựng cơ sở thông tin đầy đủ bao gồm thông tin giao dịch trên thị trường, thông tin về các công ty, niêm yết, thông tin về các tổ chức trung gian thị trường và thông tin quản lý thị trường.
    Tự động hóa một bước hệ thống lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán. Thực hiện dịch vụ lưu ký chứng khoán chưa niêm yết; giảm thời gian thanh toán; tự động hóa từng bước hệ thống lưu ký, thanh toán bù trừ; thực hiện hiện nối mạng giữa các thành viên lưu ký và TTGDCK.

    1.3 Hoàn thiện thể chế TTCK và tăng cường năng lực cho các định chế trung gian khác.
    Để đảm bảo một môi trường đầu tư ổn định, giảm thiểu rủi ro thị trường, hấp dẫn nhà đầu tư trong và ngoài nước, thể chế TTCK cần được hoàn thiện thông qua một số các hoạt động sau đây: Củng cố và hiện đại hóa các định chế thị trường đã có như các TTGDCK, các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ. Bên cạnh đó, cũng cần phải phát triển và hoàn thiện hơn nữa những thể chế khác cho TTCK . Các quỹ đầu tư chứng khoán với quy mô tài chính và kỹ năng chuyên nghiệp cần được khuyến khích hoạt động mạnh mẽ hơn nhàm chuyên môn hóa hoạt động đầu tư chứng khoán và tạo định hướng cho nhà đầu tư nhỏ lẻ. Việc phát triển các định chế quỹ đầu tư chứng khoán sẽ tạo một đội ngũ các tổ chức đầu tư chuyên nghiệp định hướng đầu tư cho thị trường.
    Bên cạnh đó các định chế mang tính chất thiết yếu trong cấu trúc thị trường như tổ chức định mức tín nhiệm, trung tâm lưu ký, đang ký và thanh toán bù trừ chứng khoán độc lập cần được xây dựng và sớm đi vào hoạt động. Việc thành lập các tổ chức tín nhiệm sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp phát hành trái phiếu cũng như tổ chức tốt một thị trường trái phiếu thứ cấp.Có thể thành lập một tổ chức định mức tín nhiệm dưới hình thức một công ty cổ phần với sự tham gia của các định chế ngân hàng, tài chính và có sự tham gia của quản lý Nhà nước. Hoạt động của tổ chức định mức tín nhiệm Việt Nam cần phải đáp ứng được các tiêu chí xếp hạng và nguyên tắ hoạt động cơ bản cảu 1 tổ chức định mức tín nhiệm trên thế giới, nưng cần phải phù hợp với bối cảnh Việt Nam hiện nay.
    Ngoài ra vai trò của những tổ chức tự quản như Hiệp hội ngành chứng khoán và Hiệp hội các nhà đầu tư tài chính cần được phát huy để có thể thực hiện được các chức năng tự quản đối với các thành viên tham gia thị trường, giảm nhẹ gánh nặng quản lý cho cơ quan quản lý nhà nước và tăng cường hiệu quả quản lý thị trường thông qua cơ chế kiểm tra và điều chỉnh.

    2. Các giải pháp đối với các Ngân hàng thương mại
    2.1. Nâng cao vai trò cầu nối của các Công ty chứng khoán của các NHTM
    Hiện nay, các hoạt động của NHTM tham gia vào TTCK mới chỉ chủ yếu là thông qua các công ty chứng khoán giống như nhiều các công ty chứng khoán khác không thuộc ngân hàng. Như vậy, các NHTM chưa thực sự phát huy được vai trò của mình, thế mạnh của mình trên thị trường chứng khoán. Các công ty chứng khoán của các NHTM cần phải phát huy hơn nữa vai trò cầu nối trung gian của mình giữa các nhà đầu tư với các doanh nghiệp, góp phần tạo kênh huy động vốn mới thực sự hiệu quả cho nền kinh tế thông qua việc đẩy mạnh hơn nữa nghiệp vụ môi giới và bảo lãnh phát hành chứng khoán; nâng cao chất lượng và mở rộng hơn nữa tư vấn đầu tư chứng khoán, tăng cường tiếp xúc với các doanh nghiệp dưới mọi hình thức nhằm giới thiệu khả năng huy động vốn qua kênh TTCK cho các doanh nghiệp; nâng khả năng vaf tính chuyên nghiệp cho các công ty chứng khoán là một đòi hỏi rất quan trọng.Bên cạnh đó, bằng cách cung cấp dịch vụ tư vấn cổ phần hóa, tư vấn niêm yết thực hiện bảo lãnh phát hành chứng khoán, các công ty chứng khoán sẽ phát huy vai trò tạo cơ chế giá, giúp các doanh nghiệp đánh giá phản ánh hợp lý đối với các chứng khoán trong đợt phát hành và giúp nhà đầu tư đánh giá đúng và chính xác về giá trị các khoản đầu tư của mình bằng cách đó công ty chứng khoán sẽ phải phát huy được vai trò tạo sản phẩm mới cho thị trường. Cuối cùng, công ty chứng khoán cần quan tâm hơn nữa tới việc tăng cường cầu nối trung gian trong việc cải thiện môi trường kinh doanh, tăng cường tiếp cận với khách hàng tiềm năng, góp phần tạo nên văn hóa đầu tư, tạo thói quen đầu tư, tạo thói quen đầu tư trên TTCK cho nhà đầu tư, tạo thói quen và kỹ năng sử dụng dịch vụ tư vấn đầu tư thông qua việc xây dựng hình ảnh của công ty, tạo niềm tin và sự tín nhiệm của khách hàng đối với cá nhân người hành nghề kinh doanh chứng khoán và đối với chính công ty.

    2.2. Tăng cường đào tạo đội ngũ nhân viên chứng khoán của các NHTM
    Thứ nhất, đào tạo đội ngũ cán bộ, nhân viên tại các công ty chứng khoán và công tác đào tạo cấp giấy phép hành nghề chứng khoán có trình độ và có kỹ năng nghề nghiệp ngang tầm với các nước trong khu vực; đảm bảo chất lượng đào tạo và thi tuyển cấp phép hành nghề ngang tầm khu vực.
    Nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ tư vấn đầu tư chứng khoán: Ngoài những kiến thức nền tảng về kinh tế tài chính, đội ngũ này cần có hiểu biết sâu sắc về kỹ năng phân tích chứng khoán và lựa chọn danh mục đầu tư chứng khoán, cá khả năng tìm tòi, khai thác, phân tích tổng hợp thông tin.

    2.3. Hiện đại hóa trang thiết bị cho các NHTM
    Hoạt động chứng khoán là hoạt động hết sức phức tạp, đòi hỏi những công nghệ và thiết bị hiện đại. Để phát huy được vai trò của mình trên thị trường chứng khoán, cùng với sự đổi mới toàn ngành, hệ thống ngân hàng không thể không đổi mới công nghệ của mình nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và tăng cường khả năng cạnh tranh. Các NHTM cần đầu tư đổi mới các cơ sở vật chất nhằm phục vụ cho các hoạt động giao dịch và thanh toán được nhanh chóng và hiệu quả, áp dụng công nghệ thông tin tiến tiến vào trong mọi lĩnh vực, mọi hoạt động của NHTM. Hiện đại hóa hệ thống thông tin, nối mạng giữa các công ty chứng khoán với TTGDCK và người đầu tư; phát triển hệ thống tác nghiệp tập trung cho các công ty chứng khoán để hiện đại hóa hệ thống tác nghiệp trên cơ sở tiết kiệm chi phí, dễ dàng chia sẻ thông tin giúp cho việc quản lý được thuận tiện, nâng cao chất lượng xử lý giao dịch và dễ dàng nâng cấp trong tương lai.

    2.4. Cổ phần hóa NHTMNN nhằm nâng cao tiềm lực về vốn
    Có thể thấy, cổ phần hóa NHTMNN là một nhu cầu cần thiết và thực tế, một xu hướng tất yếu khi mà định hướng chung của kinh tế nước ta hội nhập với kinh tế thế giới. Tuy nhiên, cần phải quan tâm đến những yêu cầu sau đây:
    Một là, cổ phần hóa các NHTMNN phải nằm trong kế hoạch tổng thể cơ cấu lại và phát triển hệ thống ngân hàng Việt Nam. Một trong những trọng tâm của nó là việc nâng vốn của các NHTMNN lên càng sớm càng tốt, để khi tiến hành cổ phần hóa xong thì tỷ lệ an toàn vốn phải đạt chuẩn mực quốc tế.
    Hai là, cổ phần hóa các NHTMNN cânf phải tiến hành từng bước thận trọng. Do tính chất tương đối đặc thù, ngân hàng vốn được coi là một ngành nhạy cảm, hoạt động ngân hàng có ảnh hưởng rất to lớn đến hầu hết các ngành khác trong nền kinh tế. Do đó, cổ phần hóa các NHTMNN cần hết sức thận trọng để để đảm bảo độ an toàn và bền vững của không những hệ thống ngân hàng mà còn của toàn bộ nền kinh tế.
    Ba là, cổ phần hóa các NHTMNN phải gắn liền với việc nâng cao điều hành, quản trị, ứng dụng các công nghệ ngân hàng hiện đại, tạo ra các sản phẩm ngân hàng mới, có sức cạnh tranh cao.
    Bốn là, cổ phần hóa các NHTMNN phải gắn liền với trình xử lý các yếu kém tồn tại, lành mạnh hóa tài chính , giảm thiểu tỷ lệ nợ xấu, nợ quá hạn.
    Năm là, cổ phần hóa các NHTMNN phải được tiến hành theo hướng công khai, minh bạch theo hướng đa sở hữu trong đó Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối. Tránh hiện tượng cổ phần hóa khép kín. Hơn nữa, cổ phần hóa NHTMNN không phải là bán tài sản hiện tại của Nhà nước cho khu vực tư nhân mà là giữ nguyên tài sản Nhà nước với mức tăng hàng năm do tái đầu tư bình thường, đồng thời huy động thêm vốn mới từ công chúng, nhằm nâng cao tiềm lực tài chính và quy mô hoạt động của các NHTMNN. Ngoài việc đảm bảo an toàn cho hoạt đọng cho cả hệ thống ngân hàng, cở sở vốn bền vững còn là điều kiện cần thiết và là cơ hội để sở tiết kiệm chi phí, dễ dàng chia sẻ thông tin giúp họ việc quản lý được thuận tiện, nâng cao chất lượng xử lý giao dịch và đễ dàng nâng cấp trong tương lai đồng thời có thể hỗ trợ đắc lực cho phát triển thị trường chứng khoán của nước ta.

    2.5. Tạo điều kiện cho phép các NHTM cổ phần mở rộng quy mô vốn
    Một trong những vấn đề đang thời sự hiện nay là cho phép các NHTM cổ phần niêm yết phát hành cổ phiếu trên TTGDCK để huy động vốn, tăng thêm vốn điều lệ cho các ngân hàng này. Đó là một trong những giải pháp quan trọng được đưa ra bàn bạc sôi nổi trong thơi gian qua. Được biết UBCKNN cũng mong muốn triển khai vấn đề này vì nó sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển của TTCK Việt Nam lên tầm cao mới, trước mắt là tăng thêm cổ phần giao dịch trên TTGDCK.Đồng thời cho đến nay, thống đốc NHNN cũng ủng hộ chủ trương nói trên. Hiện nay, trên thực tế, nhiều NHTMCP trong nước làm ăn có bài bản, lãi lớn, hoạt động ổn định, hoạch toán rõ ràng, được kiểm toán quốc tế hay kiểm toán độc lập, có uy tín trong nước và quốc tế, tạo được lòng tin trong dân chúng, nên chắc chắn việc niêm yết và phát hành cổ phiếu cảu NHTM trên TTGDCK sẽ thành công.
    C. KẾT LUẬN
    Qua bài trình bày trên đấy, chúng ta cũng thấy được ưu đãi của pháp luật đối với hoạt động của NHTM trên TTCk. Bên cạnh đó chúng ta cũng thấy được vai trò hết sức quan trọng của NHTM trên TTCK. Phát triển mạnh thị trường vốn theo hướng phát triển vững mạnh hệ thống ngân hàng thương mại thuộc các thành phần kinh tế, phát huy vai trò của các ngân hàng trong việc huy động và cho vay vốn đầu tư; đồng thời khẩn trương nâng cấp và thực hiện các biện pháp đồng bộ để phát triển nhanh TTCK thành một kênh huy động vốn dài hạn quan trọng trong nền kinh tế. Đẩy nhanh và mở rộng diện cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước (DNNN), khuyến khích hình thành các công ty cổ phần thuộc mọi thành phần kinh tế, kể cả các doanh nghiệp FDI, niêm yết cổ phiếu và huy động vốn qua TTCK. Hình thành đồng bộ thể chế về TTCK; tăng cường hỗ trợ của Nhà nước về kết cấu hạ tầng kỹ thuật, đào tạo nguồn nhân lực, phổ cập kiến thức, tạo điều kiện thuận lợi cho công chúng tham gia thị trường này.
















    D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO​ 1. Giáo trình Thị trường Chứng khoán, Trường Đại học Bán công Tôn Đức Thắng, Khoa Kế toán – Tài chính, NXB Lao động – Xã hội;
    2. Giáo trình Thị Trường Chứng Khoán, Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân, Khoa Tài chính – Ngân hàng, NXB Chính trị năm 2002;
    3. Luật chứng khoán năm 2006.
    4. Nghị định số 48/1998/ NĐ-CP ngày 11/07/1998 của Chính phủ về chứng khoán và TTCK và Quyết định số 127/1998/QĐ-TTH của thủ tướng chính phủ về việc thành lập TTGDCK ở HN và TPHCM;
    5. Nghị định 75/1996/CP ngày 28/11/1996 của Chính phủ thành lập Ủy ban Chứng khoán Nhà nước;
    6. Thông tư số 13/2010/TT-NHNN ngày 20 tháng 05 năm 2010 quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng
    7. Tạp chí Thị trường Tài chính tiền tệ, số 6, ngày 15 tháng 3 năm 2010;
    8. Tạp chí Thị trường Tài chính tiền tệ, số 14, ngày 15 tháng 7 năm 2010;
    9. Tạp chí Thị trường Tài chính tiền tệ, số 15, ngày 1 tháng 8 năm 2010;
    10. Luận văn thạc sĩ Kinh tế đối ngoại của Đỗ Thị Hạnh năm 2009 với đề tài:“Phát triển bền vững thị trườngchứng khoán Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế”;
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...