Tài liệu Pháp luật về hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay

Thảo luận trong 'Luật Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    ĐỀ TÀI: Pháp luật về hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay


    LỜI NÓI ĐẦU

    Thị trường chứng khoán Việt Nam ra đời và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 28/7/2000 là sự kiện quan trọng trong quá tŕnh đổi mới nền kinh tế và hội nhập quốc tế của Việt Nam. Thị trường chứng khoán là công cụ hiệu quả huy động và phân bổ vốn trung, dài hạn cho nền kinh tế. Thông qua hoạt động chào bán chứng khoán các doanh nghiệp sẽ thu hót, tạo lập vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh. Trong những năm qua, hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ đă trở thành giải pháp hiệu quả giúp doanh nghiệp giải quyết nhu cầu về vốn của ḿnh. Tham gia chào bán chứng khoán riêng lẻ c̣n tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đổi mới h́nh thức quản lư, quản trị doanh nghiệp, nâng cao năng lực cạnh tranh. Để bảo đảm hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ của các doanh nghiệp diễn ra đúng pháp luật, thị trường chứng khoán vận hành an toàn, nghiên cứu pháp luật về hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ là việc làm cần thiết. Từ nhận thức đó, tôi chọn đề tài: “Pháp luật về hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay”.
    1. Mục đích nghiên cứu:
    - Khóa luận tiến hành nghiên cứu mét số vấn đề lư luận cơ bản về chào bán chứng khoán riêng lẻ và pháp luật v̉ chào bán chứng khoán riêng lẻ;
    - Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam trong những năm qua về chào bán chứng khoán riêng lẻ, những thành tựu và hạn chế cần khắc phục;
    - Đ̉ xuất một sè phương hướng hoàn thiện pháp luật về hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ của doanh nghiệp ViệtNam hiện nay.
    2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
    Hoạt động chào bán chứng khoán bao gồm chào bán chứng khoán riêng lẻ và chào bán chứng khoán ra công chúng. Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ của doanh nghiệp Việt Nam, chủ yếu là hoạt động chào bán cổ phiếu và trái phiếu riêng lẻ.
    Hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng, chào bán chứng chỉ quỹ đầu tư, chào bán trái phiếu Chính phủ, chào bán chứng khoán của những doanh nghiệp được Chính phủ bảo lănh . không thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài.
    3. Phương pháp nghiên cứu:
    Để giải quyết vấn đề chào bán chứng khoán riêng lẻ của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, khóa luận đă sử dông phương pháp nghiên cứu sau: phương pháp hệ thống hóa, so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê. Với những phương pháp này, người viết muốn làm rơ một số vấn đề lư luận liên quan đến pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ của doanh nghiệp, thực trạng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ.
    4. Ư nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài:
    - Khóa luận góp phần làm rơ hơn một số vấn đề lư luận về chào bán chứng khoán riêng lẻ và pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ, vai tṛ của hoạt động này đối với nền kinh tế.
    - Khóa luận đă phân tích thực trạng pháp luật Việt Nam trong những năm qua về hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ của doanh nghiệp và mét sè ưu, nhược điểm cần khắc phục.
    - Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ được rót ra từ việc nghiên cứu, đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam trong hoàn cảnh đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế.
    5. Kết cấu của đề tài:
    Ngoài phần lời nói đầu, bảng chữ viết tắt, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung đề tài gồm ba chương:
    - Chương 1: Những vấn đề lư luận cơ bản về pháp luật chào bán chứng khoán riêng lẻ.
    - Chương 2: Thực trạng pháp luật về hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay.
    - Chương 3: Phương hướng hoàn thiện pháp luật về hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ của doanh nghiệp Việt Namhiện nay.


    BẢNG CHỮ VIẾT TẮT




    CPH: Cổ phần hoá.
    DNNN: Doanh nghiệp nhà nước.
    NHTM: Ngân hàng thương mại.
    NHTMCP: Ngân hàng thương mại cổ phần.
    TTCK: Thị trường chứng khoán.
    TTGDCK: Trung tâm giao dịch chứng khoán.


















    CHƯƠNG 1
    NHỮNG VẤN ĐỀ LƯ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT
    CHÀO BÁN CHỨNG KHOÁN RIÊNG LẺ

    1.1 KHÁI NIỆM CHỨNG KHOÁN VÀ CHÀO BÁN CHỨNG KHOÁN RIÊNG LẺ.
    1.1.1 Chứng khoán.
    * Định nghĩa:
    Nền kinh tế hiện đại tồn tại nhiều loại thị trường, mỗi thị trường đều có hàng hoá và đối tượng giao dịch khác nhau. Thị trường tiền tệ là nơi mua bán, trao đổi các công cụ tài chính ngắn hạn nh­ tín phiếu kho bạc, thương phiếu, các chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhượng được . Thị trường ngoại hối là nơi diễn ra các giao dịch, mua bán, chuyển nhượng, vay và cho vay bằng ngoại tệ. Trên thị trường chứng khoán (TTCK), đối tượng giao dịch chủ yếu của thị trường này là các chứng khoán, bao gồm cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư và các chứng khoán phái sinh. Că nhiều định nghĩa khác nhau về chứng khoán, tuỳ theo quan điểm của mỗi chủ thể và pháp luật mỗi quốc gia.
    Theo nghĩa nguyên thuỷ nhất, chứng khoán là những chứng thư, chứng từ thay thế tiền bạc chi tiêu trong các hành tŕnh nhiều ngày trên biển. [9, tr.270] Định nghĩa này chỉ phù hợp với giai đoạn đầu khi TTCK mới h́nh thành, số lượng hàng hoá c̣n hạn chế.
    Ngày nay, TTCK đă phát triển về quy mô và chất lượng, khái niệm về chứng khoán có những thay đổi nhất định. Một cách khái quát nhất, chứng khoán được hiểu là những chứng thư dưới dạng vật chất hoặc dữ liệu điện tử (bót toán ghi sổ) xác nhận quyền, lợi Ưch hợp pháp của chủ sở hữu chứng khoán đối với chủ thể phát hành và có thể mua bán, trao đổi.
    Một số nhà kinh tế học cho rằng, chứng khoán là mọi sản phẩm tài chính có thể chuyển nhượng được. Hiểu theo cách này, khái niệm chứng khoán không chỉ có cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán phái sinh mà bao gồm các công cụ trên thị trường tiền tệ như tín phiếu kho bạc, kỳ phiếu ngân hàng, các loại thương phiếu, hối phiếu, lệnh phiếu . Nếu hiểu nh­vậy chúng ta sẽ khó khăn trong việc xác định cấu trúc của thị trường tài chính. [9, tr.270]
    Chứng khoán là một từ dùng để chỉ một chứng từ hợp pháp xác nhận quyền được hưởng một số quyền lợi có thể có trong tương lai một số điều kiện nhất định. [6, tr.11]
    Ở Việt Nam, theo khoản 1 Điều 6 Luật chứng khoán 2006: “Chứng khoán là bằng chứng xác nhận quyền và lợi Ưch hợp pháp của chủ sở hữu đối với tài sản hoặc phần vốn của tổ chức phát hành. Chứng khoán được thể hiện dưới h́nh thức chứng chỉ, bót toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử, bao gồm các loại sau đây:
    a) Cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ;
    b) Quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán.”
    Khái niệm về chứng khoán có thể được xây dùng theo hai phương pháp: đưa ra các tiêu chí để xác định một loại sản phẩm tài chính nào đó được coi là chứng khoán hoặc liệt kê tất cả những đối tượng được coi là chứng khoán. Mỗi phương pháp đều có mặt tích cực và hạn chế. Các quốc gia tuỳ theo mục đích xây dựng và phát triển TTCK có thể sử dụng các phương pháp khác nhau. Điều 2 Luật chứng khoán Hoa Kỳ năm 1933 (đă sửa đổi) sử dụng phương pháp liệt kê tất cả hơn 30 công cụ được coi là chứng khoán. Điều 4 Luật chứng khoán và giao dịch chứng khoán Thái Lan liệt kê chi tiết 10 loại chứng khoán khác nhau. Luật chứng khoán Trung Quốc kết hợp cả hai phương pháp trên.[5, tr.210] Việt Nam áp dụng cả hai phương pháp, vừa liệt kê 09 loại chứng khoán vừa đưa ra một số tiêu chí chung nh­ nội dung, h́nh thức tồn tại . của chứng khoán.
    Luật chứng khoán 2006 đă thừa nhận h́nh thức thể hiện của chứng khoán dưới dạng dữ liệu điện tử và quy định cụ thể bằng cách liệt kê các chứng khoán mà Nghị định 144/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 của Chính phủ về chứng khoán và TTCK chỉ quy định “các loại chứng khoán khác”. Quy định nh­ vậy phù hợp với tốc độ phát triển của TTCK Việt Nam và thông lệ quốc tế. Việc liệt kê đầy đủ các loại chứng khoán tạo thuận lợi cho công tác quản lư, hoạt động áp dụng pháp luật diễn ra thuận lợi hơn.
    * Đặc điểm:
    Chứng khoán là hàng hoá đặc biệt chỉ xuất hiện và tồn tại trên TTCK. Chứng khoán có những đặc điểm phân biệt với hàng hoá thông thường.
    Thứ nhất, chứng khoán có tính sinh lợi: thể hiện ở lợi tức và chênh lệch giá chứng khoán. Khả năng sinh lợi tạo nên sức hÊp dẫn của chứng khoán, lôi cuốn nhà đầu tư tham gia thị trường. Họ sẵn sàng trả tiền để mua chứng khoán với mong muốn chứng khoán đó sẽ mang về mét khoản lợi nhuận trong tương lai, có thể là khoản chênh lệch về thị giá khi mua bán chứng khoán, có thể là lợi tức do việc sở hữu chứng khoán.
    Thứ hai, chứng khoán có tính thanh khoản: đây là thuộc tính quan trọng thể hiện ở khả năng chuyển hoá thành tiền mặt dễ dàng của chứng khoán. Nhờ khả năng thanh khoản, chứng khoán có thể chuyển nhượng, trao đổi, mua bán trên thị trường và hạn chế các rủi ro. Mỗi loại chứng khoán có tính thanh khoản khác nhau, phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: uy tín của chủ thể phát hành, nhu cầu thị trường .
    Thứ ba, chứng khoán có tính rủi ro: ngoài những thuộc tính hấp dẫn về tính sinh lợi, tính thanh khoản, chứng khoán Èn chứa nhiều rủi ro. Chứng khoán giống như một con dao hai lưỡi, có thể đem lại khoản lợi nhuận lớn nhưng có thể gây thiệt hại đáng kể cho nhà đầu tư. Họ có thể gặp nhiều rủi ro về thanh toán, tính thanh khoản, rủi ro về lạm phát, rủi ro về lăi suất, về nhu cầu thị trường . Khi quyết định đầu tư chứng khoán nhà đầu tư cần lưu ư thuộc tính này.
    Ngoài những đặc điểm trên, chứng khoán c̣n có tính “tư bản giả”, thể hiện ở sự không đồng nhất giữa giá thanh toán và mệnh giá chứng khoán. Chứng khoán c̣n có tính giá trị. Là bằng chứng xác nhận quyền và lợi Ưch hợp pháp của người sở hữu chứng khoán đối với phần vốn và tài sản của chủ thể phát hành nên chứng khoán luôn có giá trị nhất định.
    Các đặc điểm của chứng khoán luôn có mối quan hệ chặt chẽ, tác động lẫn nhau: tính thanh khoản luôn đi cùng tính sinh lêi, tính giá trị và tính rủi ro. Do đó, cần quan tâm đầy đủ các thuộc tính của chứng khoán để đưa ra những quyết định đầu tư đúng đắn.
    * Phân loại:
    Có nhiều cách phân loại chứng khoán khác nhau tuỳ theo tính chất, đặc điểm của chứng khoán và mục đích nghiên cứu.
    - Căn cứ vào h́nh thức thể hiện, chứng khoán có thể chia thành: cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư và các chứng khoán phái sinh (chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai ).
    - Căn cứ vào quyền của nhà đầu tư đối với chủ thể phát hành, chứng khoán có thể chia thành: chứng khoán nợ, chứng khoán vốn, chứng khoán phái sinh.
    + Chứng khoán vốn là loại chứng khoán xác nhận quyền sở hữu và lợi Ưch hợp pháp của người sở hữu chứng khoán đối với tài sản hoặc phần vốn góp của tổ chức phát hành. Chứng khoán vốn có hai dạng chủ yếu là cổ phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư.
    + Chứng khoán nợ: là loại chứng khoán xác nhận một khoản nợ của tổ chức phát hành đối với người sở hữu chứng khoán, trong đó cam kết sẽ thanh toán sè tiền gốc và lăi trong một thời gian nhất định. Chứng khoán nợ chủ yếu là các loại trái phiếu (trái phiếu Chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương, trái phiếu doanh nghiệp .).
    + Chứng khoán phái sinh là loại chứng khoán có nguồn gốc từ một loại chứng khoán nào đó. Loại chứng khoán này được phát hành với mục đích dự pḥng rủi ro hay tăng khả năng lợi nhuận cho nhà đầu tư khi mua bán chứng khoán.
    - Căn cứ vào thời hạn, chứng khoán có thể chia thành: chứng khoán ngắn hạn, chủ yếu là các giấy tờ có giá ngắn hạn (thường là dưới 1 năm) nh­ tín phiếu kho bạc, kỳ phiếu ngân hàng . Chứng khoán dài hạn (có thÓ từ 5-10 năm hoặc trên 10 năm) nh­ cổ phiếu, trái phiếu .
    - Căn cứ vào lợi tức, có thể chia thành chứng khoán có lợi tức ổn định và chứng khoán có lợi tức không ổn định. Chứng khoán có lợi tức ổn định là những chứng khoán tạo ra lợi tức ổn định theo mệnh giá cho người sở hữu chứng khoán, thường là cổ phiếu ưu đăi và trái phiếu. Đối với chứng khoán có lợi tức không ổn định, người sở hữu chứng khoán hưởng lợi tức theo kết quả kinh doanh của doanh nghiệp, cổ phiếu thường là một chứng khoán loại này.
    - Căn cứ vào khả năng chuyển đổi, chứng khoán có thể chia thành: chứng khoán có khả năng chuyển đổi và chứng khoán không có khả năng chuyển đổi. Chứng khoán có khả năng chuyển đổi là những chứng khoán cho phép người nắm giữ nó có thể chuyển sang một loại chứng khoán khác theo những điều kiện và tỷ lệ nhất định. Cổ phiếu ưu đăi, trái phiếu chuyển đổi có thể chuyển đổi thành cổ phiếu thường. Chứng khoán không có khả năng chuyển đổi không có những đặc điểm nh­trên.
    Việc phân loại chứng khoán giúp chúng ta hiểu hơn về các loại chứng khoán, quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư khi sở hữu các chứng khoán khác nhau, quản lư nhà nước đối với hoạt động chào bán chứng khoán.
    1.1.2 Chào bán chứng khoán riêng lẻ.
    * Định nghĩa:
    Chào bán chứng khoán là việc đưa thêm chủng loại chứng khoán mới vào thị trường, bao gồm tất cả các hoạt động như xin phép, mời chào, phát hành, phân phối chứng khoán với mục đích cuối cùng là đưa chứng khoán ra thị trường, tạo tính thanh khoản cho chứng khoán. Hoạt động này chỉ diễn ra trên thị trường sơ cấp - nơi chứng khoán lần đầu tiên được phát hành.
    Các chứng khoán thường được chào bán theo hai phương thức, đó là chào bán riêng lẻ và chào bán ra công chúng. Chào bán chứng khoán ra công chúng là việc bán chứng khoán cho một số lượng lớn công chúng đầu tư, trong đó một số lượng chứng khoán phải được phân phối cho các nhà đầu tư nhỏ, khối lượng phát hành phải đạt một tỷ lệ nhất định. Các chứng khoán chào bán ra công chúng được niêm yết và giao dịch trên thị trường tập trung. Các công ty chào bán chứng khoán ra công chúng có lợi thế trong việc quảng bá h́nh ảnh, tên tuổi và mặc nhiên được coi là có t́nh h́nh tài chính lành mạnh, hoạt động kinh doanh ổn định. Đây là lợi thế lớn cho công ty khi kư kết hợp đồng, t́m kiếm bạn hàng.
    Chào bán chứng khoán riêng lẻ là việc chào bán chứng khoán trong phạm vi một số nhà đầu tư nhất định, thông thường là những nhà đầu tư có tổ chức với những điều kiện hạn chế, không tiến hành chào bán rộng răi ra công chúng.
    Khái niệm chào bán chứng khoán riêng lẻ chưa được đề cập chính thức trong hệ thống pháp luật về chứng khoán và TTCK của Việt Nam. Khoản 12 Điều 6 Luật chứng khoán 2006 chỉ đề cập đến khái niệm chào bán ra công chúng. Mét đợt chào bán được coi là chào bán chứng khoán ra công chúng nếu việc chào bán chứng khoán thông qua các phương tiện thông tin đại chúng (kể cả qua Internet) hoặc chào bán cho từ 100 nhà đầu tư trở lên, không kể nhà đầu tư chuyên nghiệp; chào bán cho một số lượng nhà đầu tư không hạn chế.
    Do vậy, có thể hiểu khái niệm về hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ là chào bán chứng khoán không thông qua các phương tiện thông tin đại chóng hay chào bán cho dưới 100 nhà đầu tư không? Dù hiểu theo cách nào th́ phạm vi chào bán, số vốn huy động và tính đại chúng của hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ thường hẹp hơn so với chào bán chứng khoán ra công chúng.
    * Đặc điểm:
    Thứ nhất, chào bán chứng khoán riêng lẻ chỉ hướng tới một số lượng nhà đầu tư hạn chế, thông thường là những nhà đầu tư có tổ chức hay những nhà đầu tư cá nhân có tiềm lực kinh tế hoặc những người có mối quan hệ thân thiết với chủ thể phát hành. Pháp luật các nước quy định khác nhau về số lượng nhà đầu tư tối thiểu được chào bán trong mỗi đợt chào bán riêng lẻ. Tại Mỹ và Nhật Bản nếu phát hành cho dưới 200 nhà đầu tư được coi là chào bán riêng lẻ; tại Hàn Quốc, Thái Lan, Indonexia nếu chào bán cho thấp hơn 50 nhà đầu tư là chào bán riêng lẻ. [2, tr.62]
    Thứ hai, ở các nước theo hệ thống Civil law, hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ do Luật chứng khoán và kinh doanh chứng khoán điều chỉnh, các nước theo hệ thống Common law chủ yếu do Luật công ty điều chỉnh. Ở Việt Nam, hoạt động này do nhiều văn bản pháp luật khác nhau quy định tuỳ theo loại h́nh doanh nghiệp và lĩnh vực kinh doanh. Đó là Luật doanh nghiệp, Luật các tổ chức tín dụng, các Nghị định về cổ phần hoá, phát hành trái phiếu, chuyển đổi doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thành công ty cổ phần .
    Thứ ba, hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ thường gắn với việc thành lập công ty cổ phần và quá tŕnh chuyển đổi h́nh thức sở hữu doanh nghiệp. Khi thành lập công ty cổ phần các cổ đông sáng lập có thể tiến hành chào bán cổ phần riêng lẻ góp đủ số vốn điều lệ đă đăng kư. Các công ty Nhà nước có thể lùa chọn phương thức chào bán chứng khoán riêng lẻ để tiến hành cổ phần hoá (CPH).
    Ngoài ra, khi chào bán chứng khoán riêng lẻ công ty có thể thực hiện một số mục đích khác như duy tŕ các quan hệ kinh doanh (khách hàng lâu năm, nhà cung cấp, phân phối ) hoặc chào bán cho cán bé, công nhân, viên chức của công ty. Chi phí chào bán chứng khoán ra công chúng thường cao hơn chi phí chào bán chứng khoán riêng lẻ, có thể lên đến 8-10% so với tổng lượng vốn huy động. [8, tr.29-30] Công ty có thể chọn phương thức chào bán chứng khoán riêng lẻ với mức chi phí thấp hơn.
    Nghiên cứu đặc điểm của hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ không chỉ phân biệt các phương thức chào bán mà c̣n có ư nghĩa xác định phạm vi thị trường cho các chứng khoán, công tác quản lư thị trường, bảo vệ quyền lợi cho nhà đầu tư thực hiện tốt hơn.
    * Phương thức chào bán chứng khoán riêng lẻ:
    Phương thức chào bán chứng khoán là những cách thức thực hiện mối quan hệ giữa tổ chức phát hành và nhà đầu tư trong suốt quá tŕnh đưa chứng khoán từ nơi phát hành đến với công chúng đầu tư.
    Chứng khoán có thể được chào bán theo các phương thức:
    - Bán trực tiếp:
    Là phương thức tổ chức phát hành thực hiện chào bán chứng khoán trực tiếp cho nhà đầu tư không qua khâu trung gian. Đây là phương thức cổ điển chứng khoán được mua bán nh­ hàng hoá thông thường. Tổ chức phát hành tự ḿnh thực hiện tất cả các công đoạn của quá tŕnh chào bán như chuẩn bị hồ sơ, thủ tục, đăng kư chào bán, quảng cáo, phân phối chứng khoán . Phương thức này đ̣i hỏi tổ chức phát hành phải am hiểu thị trường, có hệ thống phân phối rộng, nhu cầu huy động vốn không cấp bách. Khi đó chứng khoán sẽ đi thẳng từ nhà phát hành đến tay nhà đầu tư, không có chi phí trung gian.
    Ưu điểm của phương thức bán trực tiếp là tổ chức phát hành sẽ tối đa được lợi nhuận, nắm bắt được nhu cầu thị trường. Nhưng tổ chức phát hành sẽ gặp khó khăn trong việc kiểm soát tổng lượng vốn lưu động, thời gian tập trung vốn thường kéo dài nên phương thức này Èn chứa nhỉu rủi ro.
    - Chào bán chứng khoán thông qua đại lư phát hành:
    Đại lư phát hành là phương thức một hoặc nhiều tổ chức đứng ra làm đại diện phân phối chứng khoán cho tổ chức phát hành theo hợp đồng đại lư trong đó có cam kết tỷ lệ hoa hồng (phí đại lư phát hành).
    Thông thường tổ chức đại lư phát hành là các công ty chứng khoán hay các định chế tài chính khác theo quy định của pháp luật. Với tŕnh độ chuyên môn và sù am hiểu thị trường, các đại lư phát hành sẽ tạo mạng lưới phân phối rộng, sè lượng chứng khoán bán ra lớn hơn so với bán trực tiƠp. Nhưng tổ chức phát hành gặp khó khăn trong việc xác định tổng lượng chứng khoán bán ra, phô thuộc vào khách hàng, bị động trong khả năng huy động vốn và chịu phí đại lư phát hành. Các đại lư chỉ chịu trách nhiệm phân phối chứng khoán, không bảo đảm thành công cho đợt chào bán.
    - Chào bán chứng khoán thông qua đÊu giá:
    Là phương thức các tổ chức trung gian sẽ thực hiện đấu giá đối với số lượng chứng khoán mà doanh nghiệp sẽ bán ra bên ngoài. Nhà đầu tư sẽ tham gia đấu giá bằng cách đăng kư trước, việc trả giá chứng khoán được tiến hành bỏ phiếu kín. Người tổ chức đấu giá, tổ chức phát hành sẽ Ên định giá tối thiểu và thực hiện bán chứng khoán theo nguyên tắc ưu tiên về giá. Thông qua đấu giá, người mua và người bán sẽ xác định được một mức giá phù hợp, khách quan và công bằng. Giá chứng khoán được h́nh thành theo hai chiều: người mua cạnh tranh với những người mua khác để mua được với giá thấp nhất, người bán cạnh tranh với những người bán khác để bán được với giá cao nhất. [9, tr.222]
    Có nhiều phương thức đấu giá, nếu căn cứ vào h́nh thức đấu giá, có đấu giá trực tiếp, đấu giá gián tiếp, đÊu giá tự động. Nếu căn cứ vào phương thức đấu giá, có đấu giá định kỳ và đấu giá liên tục.
    - Chào bán chứng khoán thông qua đÊu thầu:
    Đấu thầu chứng khoán là phương thức một hoặc nhiều nhà thầu sẽ mua toàn bộ số chứng khoán dự định phát hành, sau đó phân phối lại trên cơ sở phân chia tỷ lệ phần trăm với tổ chức phát hành.
    Phương thức này có ưu điểm là xác định tổng lượng vốn lưu động, thời gian huy động vốn ngắn (thường chỉ từ 1- 6 tuần). Tuy nhiên, tổ chức phát hành phải chịu chi phí trung gian. Khoản phí này do tổ chức phát hành thoả thuận với tổ chức đấu thầu, tổ chức được uỷ quyền. Trái phiếu Chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương, trái phiếu kho bạc, trái phiếu công tŕnh trung ương, trái phiếu được Chính phủ bảo lănh . thường chào bán bằng phương thức đấu thầu.
    - Chào bán chứng khoán thông qua bảo lănh phát hành:
    Bảo lănh phát hành là phương thức mét hoặc nhiều tổ chức bảo lănh cam kết với tổ chức phát hành về việc thực hiện các thủ tục trước khi chào bán, phân phối chứng khoán cho nhà đầu tư, nhận mua chứng khoán để bán lại và mua số chứng khoán c̣n lại chưa phân phối hết.
    Sù tham gia của tổ chức bảo lănh giúp hoạt động chào bán chứng khoán diễn ra thuận lợi hơn. Tổ chức bảo lănh chuẩn bị hồ sơ, thủ tục cần thiết trước khi chào bán và tiến hành phân phối chứng khoán. Tổ chức bảo lănh có thể thành lập tổ hợp bảo lănh để phân tán rủi ro trong đợt chào bán.
    Că nhiều phương thức bảo lănh với mức độ cam kết khác nhau được ghi rơ trong hợp đồng bảo lănh. Những doanh nghiệp mới thành lập hoặc quy mô nhỏ có thể chọn h́nh thức bảo lănh với cam kết chắc chắn để đảm bảo thành công cho đợt chào bán. Nếu công ty có nhu cầu một số vốn nhất định cho chiến lược kinh doanh mà không thể sử dụng số vốn Ưt hơn có thể chọn bảo lănh theo phương thức tất cả hoặc không. Những doanh nghiệp phát hành bổ sung thêm cổ phiếu, nếu có những cổ đông không muốn mua thêm cổ phiếu của công ty có thể áp dụng phương thức bảo lănh dự pḥng cho những quyền mua không được thực hiện. Nếu tổ chức bảo lănh không bảo đảm khả năng phân phối hết số chứng khoán có thể thoả thuận với tổ chức phát hành h́nh thức bảo lănh với cố gắng cao nhất. Mỗi phương thức bảo lănh đều có ưu và nhược điểm riêng. Do đó, tổ chức phát hành cần lưu ư nhu cầu vốn và những đặc thù của doanh nghiệp để lùa chọn phương thức bảo bănh phù hợp.
    * Vai tṛ của hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ trong nền kinh tế thị trường của Việt Nam hiện nay:
    Đối với TTCK, hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ cung cấp hàng hoá cho TTCK, tạo cơ sở cho các hoạt động trao đổi mua bán trên thị trường và kiểm chứng ban đầu về chất lượng chứng khoán sẽ được cung ứng.
    Đối víi tổ chức phát hành, hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ là một kênh huy động vốn hiệu quả, linh hoạt. Thông qua chào bán chứng khoán riêng lẻ tổ chức phát hành sẽ tăng quy mô, hiệu quả sử dụng vốn, mở rộng sản suất. Đây là nguồn vốn dài hạn và ổn định. Hoạt động này góp phần thóc đẩy doanh nghiệp tự “hoàn thiện” ḿnh trong việc thực hiện tốt hơn chế độ tài chính, kế toán, công bố thông tin Từ đó, doanh nghiệp từng bước đáp ứng những điều kiện chào bán chứng khoán ra công chúng và niêm yết trên thị trường tập trung.
    Đối với các nhà đầu tư, hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ cung cấp các loại chứng khoán và những thông tin bổ Ưch về đợt chào bán và tổ chức phát hành. Bằng những kiƠn thức, kinh nghiệm họ quyết định đầu tư vào một loại chứng khoán cụ thể. Do vậy, hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ có ư nghĩa nhất định đối với các nhà đầu tư.
    Đối với tổ chức trung gian, với vai tṛ đại lư phát hành, bảo lănh phát hành, tư vấn phát hành . các tổ chức này không chỉ thu được khoản lợi nhuận nhất định (phí, hoa hồng) từ các hợp đồng đại lư, bảo lănh . Thông qua những hoạt động này, tổ chức trung gian sẽ nắm bắt được nhu cầu, diễn biến của thị trường và đưa ra những chiến lược kinh doanh hợp lư.
    Trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam hiện nay, cùng với quá tŕnh chuyển đổi từ cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường là quá đổi mới, sắp xếp doanh nghiệp nhà nước (DNNN). Hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ góp phần thúc đẩy quá tŕnh CPH DNNN, giảm sự bao cấp về vốn cho những doanh nghiệp này. Huy động vốn bằng cách chào bán chứng khoán mang lại sù linh hoạt và chủ động cho doanh nghiệp, tạo đỉu kiện để doanh nghiệp tiếp cận với phương thức quản lư hiệu quả hơn.
    Ngoài ra, hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ có vai tṛ quan trọng trong việc thực hiện chuyển đổi các loại h́nh doanh nghiệp khác như doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, công ty trách nhiệm hữu hạn chuyển đổi thành công ty cổ phần và hoạt động quản lư nhà nước trên thị trường sơ cấp.
    1.2 PHÁP LUẬT VỀ CHÀO BÁN CHỨNG KHOÁN RIÊNG LẺ.
    1.2.1 Khái niệm:
    Pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan hệ xă hội phát sinh trong quá tŕnh chào bán chứng khoán trong một phạm vi, giới hạn nhất định của tổ chức phát hành.
    1.2.2 Nội dung pháp luật chào bán chứng khoán riêng lẻ.
    * Pháp luật chào bán cổ phiếu riêng lẻ:
    Chào bán cổ phiếu riêng lẻ là việc công ty cổ phần thực hiện bán cổ phiếu của ḿnh trong phạm vi nhỏ các tổ chức đầu tư hay một số nhà đầu tư cá nhân có tiềm lực kinh tế.
     
Đang tải...