Luận Văn Phân tích xuất khẩu lao động và tình hình xuất khẩu lao động tại việt nam

Thảo luận trong 'Lao Động' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Phân tích xuất khẩu lao động và tình hình xuất khẩu lao động tại việt nam
    I – Khái quát về xuất khẩu lao động

    Để thuận tiện cho quá trình nghiên cứu, trước hết em xin được đề cập các khái niệm liên quan đến hoạt động xuất khẩu lao động.

    1, Khái niệm :

    1.1 Lao động : Là hoạt động có mục đích, có ý thức của con người nhằm thay đổi những vật thể tự nhiên, để phù hợp với lợi ích của mình. Lao động là sự vận động của sức lao động, là quá trình kết hợp giữa sức lao động và tư liệu sản xuất tạo ra của cải vật chất cho xã hội.

    Thành quả do con người tạo ra trong quá trình lao động để nuôi sống bản thân họ, gia đình họ và đảm bảo sự tồn tại của xã hội. Lao động có năng suất, chất lượng đem lại hiệu quả cao là nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước. Vì vậy lao động có một vị trí vô cùng quan trọng và không thể thiếu được trong bất kỳ một chế độ xã hội nào, một quốc gia nào. Mỗi con người đến độ tuổi lao động, có khả năng lao động đều mong muốn và có quyền được lao động để nuôi sống bản thân, giúp đỡ gia đình và làm giàu cho xã hội.

    1.2 Sức lao động : Là tổng hợp thể lực và trí lực của con người trong quá trình tạo ra của cải xã hội, phản ánh khả năng lao động của con người, là điều kiện đầu tiên cần thiết trong quá trình lao động xã hội.

    1.3 Nguồn lao động : Là một bộ phận của dân cư bao gồm những người trong độ tuổi lao động, không kể số người mất khả năng lao động và những người ngoài độ tuổi lao động (trên hoặc dưới tuổi lao động) nhưng thực tế có tham gia lao động. (Nước ta độ tuổi lao động quy định từ 15-55 đối với nữ và 15-60 đối với nam).

    1.4 Thị trường lao động : Thị trường là một phạm trù riêng của kinh tế hàng hoá. Thị trường là nơi diễn ra trao đổi hàng hoá dịch vụ. Nội dung của thị trường được biểu hiện qua hai nhân tố có quan hệ mật thiết với nhau : cung và cầu hàng hoá.

    Thị trường lao động là một lĩnh vực của nền kinh tế mà ở đó diễn ra quá trình mua bán, trao đổi, thuê mướn sức lao động. Ở nơi nào có nhu cầu sử dụng lao động và có nguồn cung cấp lao động thì ở đó sẽ hình thành nên thị trường lao động. Đối tượng tham gia thị trường lao động gồm những người lao động và người sử dụng lao động. Giá cả sức lao động chinh là tiền công mà người sử dụng lao động trả cho người lao động.

    Khi cung và cầu lao động gặp nhau và hoạt động mua bán, trao đổi hay thuê mướn sức lao động diễn ra trong phạm vi biên giới một quốc gia thì ta có thị trường lao động nội địa, khi diễn ra ngoài biên giới quốc gia một nước thì ta có thị trường lao động quốc tế.

    1.5 Xuất khẩu sức lao động : Là hoạt động trao đổi, mua bán hay thuê mướn hàng hoá sức lao động giữa chính phủ một quốc gia hay tổ chức, cá nhân cung ứng sức lao động của nước đó với chính phủ, tổ chức, cá nhân sử dung sức lao động nước ngoài trên cơ sở hiệp định hay hợp đồng cung ứng lao động.
    Như vậy. khi hoạt động xuất khẩu lao động được thực hiện sẽ có sự di chuyển lao động có thời hạn và có kế hoạch từ một nước sang một nước khác. Trong hành vi trao đổi này, nước đưa lao động đi được coi là nước xuất khẩu lao động, nước tiếp nhận sức lao động được coi là nước nhập khẩu lao động. Trên thực tế có trường hợp xuất hiện vai trò của nước thứ ba làm nhiệm vụ trung gian, môi giới hoặc kinh doanh.

    Đặc trưng cơ bản của hoạt động xuất khẩu lao động, khác so với các loại hàng hoá khác xuất phát từ tính đặc thù của loại hàng hoá này. Sức lao động là một loại hàng hoá đặc biệt vì con người là chủ thể lao động, có tư duy và khả năng làm chủ bản thân. Cho nên trong hiệp đinh hay hợp đồng cung ứng lao động, ngoài những điều khoản quy định như đối với các loại hàng hoá bình thường còn phải có những điều khoản đề cập đến đời sống chính trị, văn hoá, tinh thần, sinh hoạt của người lao động. Những điều này bị chi phối phong tục, tập quán, tôn giáo, văn hoá của các quốc gia tham gia vào lĩnh vực này.



    Có hai hình thức xuất khẩu lao động là :

    - Đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài (LHQ dùng khái niệm di dân quốc tế) : là hình thức đầu tư lao động sống ra nước ngoài nhằm thu hút thu nhập quốc dân từ nước ngoài về cho đất nước.

    - Xuất khẩu lao động tại chỗ: Theo luật Đầu tư nước ngoài của nước ta, là hình thức đầu tư lao động sống ở trong nước để thực hiện giá trị sức lao động cho mình đối với nước ngoài.

    Trong nội dung khoá luận này, em chỉ xin đề cập đến hình thức xuất khẩu lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài.


    2, Nguyên nhân hình thành và phát triển xuất khẩu lao động

    Trong tác phẩm "Phép biện chứng tự nhiên", F. Ăng - ghen viết : "Con người sống lan rộng ra tất cả những nơi nào có thể được và người là loại động vật duy nhất làm được điều đó một cách độc lập, tự chủ". Ngay từ buổi bình minh của loài người đã xuất hiện sự di chuyển của nguồn lao động đến những miền đất tốt đẹp hơn. Như vậy, sự di cư lao động quốc tế thể hiện tính tất yếu và tác dụng tiến bộ của lịch sử. Chính sự phân bố không đồng đều về dân cư, về điều kiện tự nhiên (tài nguyên, khí hậu) và sự bùng nổ dân số trên thế giới đã hình thành luồng di cư lao động ở những nước kinh tế chậm phát triển di cư đến những nước có đời sống kinh tế khá hơn, lao động ở nước nghèo tài nguyên di chuyển đến những nước có điều kiện thiên nhiên thuận lợi, dân cư ở nước có mật độ cao di chuyển đến những nước có mật độ dan cư thấp. Như vậy việc di chuyển lao động trước hết là một hiện tương khách quan trong quá trình làm việc của bản thân người lao động.

    Ngoài ra, xuất khẩu lao động còn bị chi phối bởi các yếu tố chủ quan khác như : chính sách của quốc gia, ý chí của nhà nước, của các tổ chức cung ứng và tiếp nhận lao động .

    Phân tích cụ thể, ta thấy có những nguyên nhân sau đây :

    Thứ nhất, do có sự mất cân đối vê số lượng lao động, khi nguồn lao động một nước không đáp ứng đủ hoặc vượt quá nhu cầu sử dụng trong nước.

    Sự dư thừa lao động, vượt quá nhu cầu sử dụng trong nước của một nước có thể là do nước dó có tỷ lệ phát triển dân số cao nền sản xuất trong nước lạc hậu, kém phát triển nên nhu cầu sử dụng thấp hoặc do nước đó có sự chuyển đổi cơ chế kinh tế mà trong giai đọan chuyển tiếp nền kinh tế chưa thể phù hợp ngay với cơ chế mới nên đã giảm sút nghiêm trọng, sản xuất bấp bênh, số lao động dôi thừa tăng nhanh.

    Trong khi đó, nhiều nước có nền kinh tế phát triển nhanh, nhu cầu sử dụng lao động lớn trong khi tốc độ tăng dân số lại quá thấp nên đã xảy ra hiện tượng thiếu lao động.

    Thứ hai, do có sự mất cân đối về cơ cấu ngành nghề nhất định mà trong nước không có hoặc không đủ. Ví dụ : ở một số nước phát triển rất thiếu lao động trong các ngành nặng nhọc, độc hại còn ở nước nghèo lại thiếu các chuyên gia, cán bộ kỹ thuật có trình độ cao.

    Trình độ phát triển kinh tế và tiến bộ khoa học kỹ thuật của mỗi quốc gia không thể giải quyết hết sự mất cân bằng này, đòi hỏi phải có sự trao đổi lao động với các quốc gia khác. Hành vi trao đổi này dẫn đến sự ra đời và phát triển của xuất khẩu lao động.

    Thứ ba, do có sự chênh lệch giá cả sức lao động trong nước và sức lao động nước ngoài. Nhiều nước mặc dù không dư thừa lao động cũng tiến hành xuất khẩu lao động vì có lợi cho cán cân thanh toán do họ có được những hợp đồng xuất khẩu lao động có giá cao và bù lại họ nhập khẩu lao động tự những nước có giá cả thấp hơn. Điều này lý giải vì sao có những nước vừa nhập khẩu lại vừa xuất khẩu lao động như : Cuba, Malaysia, Bungari .

    Thứ tư, do có sự chênh lệch về mức thu nhập và mức sống giữa người lao động trong nước và người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Vì lý do này mà nhiều người dù không thuộc đội quân thất nghiệp nhưng vẫn muốn đi xuất khẩu lao động để tăng thêm thu nhập, cải thiện đời sống bản thân và gia đình.

    Thứ năm, do xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế, lực lượng sản xuất phát triển, nền sản xuất lớn không thể bó hẹp trong phạm vi biên giới quốc gia mà mở rộng ra nhiều nước, việc sử dụng lao động mang tính quốc tế. Hơn nữa, việc tăng cường xuất khẩu công nghệ, bao thầu công trình quốc tế sẽ tất yếu kèm theo việc phát triển xuất khẩu lao động
     
Đang tải...