Tiểu Luận Phân tích vai trò của kinh tế tư nhân

Thảo luận trong 'Chưa Phân Loại' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    1. Định nghĩa kinh tế tư nhân và vai trò của kinh tế tư nhân
    Kinh tế tư nhân là loại hình kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất với lao động của bản thân người chủ sản xuất và lao động làm thuê hoặc hoàn toàn thuê lao động, có các quy mô khác nhau về vốn, lao động, công nghệ hoạt động dưới các hình thức hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp tư nhân, Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần, Công ty hợp doanh. Đây là những hình thức phổ biến, được phát triển mạnh mẽ trong những năm vừa qua với các quy mô, mức độ khác nhau. Kinh tế tư nhân có ưu thế đặc biệt khi sử dụng đa dạng hóa các hình thức kinh tế cụ thể trong quá trình phát triển nền kinh tế vốn yếu kém đi lên kinh tế thị trường như nước ta. Nó không chỉ đóng vai trò là một kênh quá trình để khơi dậy, huy động và khai thác nguồn tiềm năng to lớn về vốn, sức lao động kinh nghiệm quản lý, trí tuệ và khả năng kinh doanh, khai thác thông tin và các nguồn lực khác cho phát triển kinh tế . thích ứng với sự biến đổi linh hoạt của môi trường kinh doanh trong và ngoài nước. Kinh tế tư nhân trực tiếp đóng vai trò quá trình về tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho xã hội, giải quyết thất nghiệp, góp phần xóa đói giảm nghèo, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, huy động ngày càng nhiều nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước .

    2. Tình hình phát triển kinh tế tư nhân.
    Trong những năm vừa qua nhờ quá trình đổi mới kinh tế và thực hành dân chủ hóa đời sống kinh tế - xã hội kinh tế tư nhân nước ta không ngừng mở rộng phạm vi hoạt động, đóng góp đáng kể vào việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và giải quyết nhiều vấn đề xã hội bức xúc. Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ năm 2000 cả nước có gần 2167,3 nghìn cơ sở kinh tế tư nhân tăng 130,7 nghìn cơ sở so với năm 1996, trong đó 29548 doanh nghiệp tư nhân, tăng 9276 doanh nghiệp và trên 2137,7 nghìn cơ sở cá thể (chưa kể nông, lâm, thủy sản) tăng 121,4 nghìn cơ sở. Tại thời điểm tháng 12 năm 2000 các cơ sở kinh tế tư nhân có 4643 lao động đang làm việc tăng 20,1% so với năm 1996 và có gần 173000 tỷ đồng vốn đang dùng vào kinh doanh sản xuất (doanh nghiệp tư nhân 16.000 tỷ). Do có quy mô hoạt động và tiềm lực như vậy nên hàng năm kinh tế tư nhân thu hút thêm hàng vạn lao động (1996 thu hút thêm 3,1 vạn lao động, năm 2000 thêm 90.000 lao động) tạo ra khoảng 40% tổng sản phẩm trong nước và đóng góp 6,4 nghìn tỷ). Những con số thống kê ở trên khẳng định kinh tế tư nhân ở nước ta là một nguồn nội lực quá trình đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước. Kinh tế tư nhân có sự tăng trưởng đáng kể về số lượng, phát triển rộng khắp trong cả nước và trong các ngành cá thể đến năm 2000 là 9,8 triệu hộ với 20,1 triệu lao động. Trong đó có 7,7 triệu hộ nông nghiệp ngoài HTX (với 16,3 triệu lao động) và 2,1 triệu hộ kinh doanh phi nông nghiệp. Số hộ kinh doanh cá thể phân bố rộng khắp trong các ngành nghề đặc biệt trong nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, ngư nghiệp. Trong công nghiệp với mô hình VAC, kinh tế trang trại góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập đáng kể, các trang trại thu hút được 363.048 lao động, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ thuần nông, phá thế độc canh, đặc biệt tạo ra mô hình cây công nghiệp, chuyên phục vụ cho xuất khẩu. Trong tiểu thủ công nghiệp với ngành nghề truyền thống được khơi dậy đặc biệt là ngành mây tre xuất khẩu, đồ gỗ mỹ nghệ - đã xuất khẩu đi nhiều nước. Ngành nuôi trồng thủy sản với mô hình nuôi tôm của các hộ gia đình thực sự tạo hiệu quả kinh tế cao phục vụ cho xuất khẩu. Nghị quyết Đại hội Đảng IX đã khẳng định "Kinh tế cá thể, tiểu chủ cả ở nông thôn và thành thị có vị trí quá trình lâu dài. Nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ phát triển, khuyến khích các hình thức tổ chức hợp tác tự nguyện, làm vệ tinh cho các doanh nghiệp hoặc phát triển lớn hơn". Ở khu vực thành thị, kinh tế cá thể thực sự đóng vai trò rất quá trình, loại hình kinh doanh dịch vụ và sản xuất hàng hóa nhỏ rất phù hợp với môi trường linh hoạt sôi động tạo thu nhập cho nhiều hộ gia đình. Nhà nước tạo điều kiện bằng cách hỗ trợ vốn.
    Về số lượng doanh nghiệp tư nhân cũng tăng rất nhanh, đặc biệt từ khi thực hiện Luật doanh nghiệp. Tính từ đầu năm 2000 đến nay có trên 36.000 doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ được đăng ký, so với 6000 doanh nghiệp được đăng ký trong hai năm trước đó. Trong đó có khoảng 92% thuộc lĩnh vực phi nông nghiệp. Điều đáng chú ý là có gần 70% doanh nghiệp vừa và nhỏ mới đăng ký là những tổ chức mới điều đó cho thấy số đầu tư mới là đáng kể. Dự đoán trong vài năm tới các hoạt động của khu vực tư nhân còn tăng hơn nữa. Điều này cho thấy lòng tin của các nhà đầu tư vào hệ thống chính thức đã được tăng lên đáng kể.
    Sự phát triển kinh tế tư nhân trực tiếp đóng vai trò quá trình về tạo nhiều công ăn việc làm cho xã hội. Năm 2000, theo thống kê của cơ quan chuyên môn, khu vực kinh tế tư nhân chiếm 56,3% tổng số lao động có việc làm thưỡnguyên trong cả nước. Trong đó, lao động phi nông nghiệp chiếm 22%, lao động nông nghiệp chiếm 78%, điều đáng chú ý là năm 1997 - 2000 khu vực này thu hút thêm 977019 lao động gấp 6,6 lần so với khu vực kinh tế Nhà nước. Lao động ở các hộ kinh doanh cá thể chiếm 81,9% riêng trong nông nghiệp, các trang trại thu được 363048 lao động chiếm 2,22%. Lao động ở khu vực kinh tế tư nhân chiếm tỷ trọng khá cao, đóng vai trò to lớn trong giải quyết việc làm nhưng tỷ trọng trong nông nghiệp rất lớn điều đó chưa thực sự chuyển dịch cơ cấu việc làm. Khả năng tạo thêm việc làm của khu vực Nhà nước có hạn nhất là về thu hút số lượng lao động. Quy mô kinh doanh hợp pháp càng lớn càng được coi trọng chính đó là con đường tạo cầu, tăng cầu về lao động. Lớp nhà kinh doanh tạo cầu về lao động càng đông đảo, làm cho nhu cầu số lượng lao động ngày càng lớn với cơ cấu và chất lượng ngày càng cao là trực tiếp mở rộng cơ hội để mọi người lao động có thể tìm việc làm phù hợp, phấn đấu nâng cao trình độ và tăng thu nhập. Các doanh nghiệp ngày càng mở rộng về số lượng chất lượng đòi hỏi nhân lực có trình độ chuyên môn vững vàng. Tuy nhiên ở nước ta đã và còn thực trạng rất đau lòng cho xã hội và đông đảo gia đình lao động do "cung về lao động rất lớn, nhưng cầu chưa đủ mạnh" khiến quá nhiều người dân chưa có cơ hội tìm việc làm, càng khó tìm việc làm phù hợp. Nạn thừa người thiếu việc trước hết rơi vào lớp người đến tuổi ra trường, vào đời. Từ nhiều năm nay nghề nông vẫn giữ tỷ trọng trên 60% lao động xã hội khiến đời sống nhà nông rất kho cải thiện. Biết bao gia đình thu nhập trung bình và thấp chủ yếu là nông dân, đang vét cạn vốn liếng đầu tư cho con em ăn học và tìm việc làm, ly nông. Hàng triệu người lao động, nam và nữ đã tự phát dấn thân vào cuộc di cư và du cư tìm kế sinh nhai, chấp nhận mọi khó khăn để tìm việc làm có thu nhập. Mọi tầnglớp thuộc độ tuổi lao động đều cố gắng để tìm được một việc làm, có việc làm hợp pháp ổn định đã là sự đổi đời. Thực tế đó chứng tỏ người lao động nước ta rất năng động cần cù, nhẫn nại. Đồng thời cũng nói lên chính sách và môi trường xã hội chưa đủ sức tăng cầu lao động với tốc độ cao và hợp lý. Hiện nay do rất thiếu khả năng, nên Hiến pháp chưa thể đặt nhiệm vụ Nhà nước và xã hội bảo đảm quyền có việc làm của công dân, càng chưa thế bảo hiểm thất nghiệp với mọi người lao động. Gánh nặng này đang buộc các gia đình tự lo. Chiến lược phát triển kinh tế xã hội năm 2000 - 2010 được Đại hội IX thông qua mỗi năm cần tạo ra trên 1 triệu việc làm mới cho số lao động mới tăng thêm, chưa kể việc giảm thất nghiệp. Hơn nữa còn có nhu cầu rất bức bách rút bớt lao động từ nông nghiệp sang các lĩnh vực ngoài nông nghiệp - trong 10 năm tới phải phấn đầu rút trên 10 triệu lao động chỉ như vậy đời sống nông dân mới có thể cải thiện.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...