Tiểu Luận Phân tích trình tự ký kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế và sự khác biệt

Thảo luận trong 'Luật Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    172
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    môn pháp luật kinh doanh quốc tế

    Phân tích trình tự ký kết hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế và sự khác biệt



    1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
    1.1. Khái niệm Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
    Hợp đồng thương mại quốc tế là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ thương mại quốc tế. Hợp đồng thương mại quốc tế có rất nhiều loại, chẳng hạn như hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, hợp đồng cung ứng dịch vụ, hợp đồng chuyển giao công nghệ .
    Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
    Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế (còn được gọi là hợp đồng mua bán ngoại thương hoặc hợp đồng xuất nhập khẩu) là hợp đồng mua bán hàng hoá có tính chất quốc tế (có yếu tố nước ngoài, có nhân tố nước ngoài). Tính chất quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế được hiểu không giống nhau tuỳ theo quan điểm của luật pháp từng nước.
    Theo Công ước Lahaye năm 1964 về mua bán quốc tế các động sản hữu hình: tính chất quốc tế thể hiện ở các tiêu chí như: các bên giao kết có trụ sở thương mại ở các nước khác nhau và hàng hoá, đối tượng của hợp đồng, được chuyển qua biên giới một nước, hoặc là việc trao đổi ý chí giao kết hợp đồng giữa các bên được lập ở những nước khác nhau (Nếu các bên giao kết không có trụ sở thương mại thì sẽ dựa vào nơi cư trú thường xuyên của họ. Yếu tố quốc tịch của các bên không có ý nghĩa trong việc xác định yếu tố nước ngoài của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế).
    Theo Công ước Viên năm 1980 của Liên Hiệp Quốc về Hợp đồng Mua bán Hàng hoá Quốc tế: tính chất quốc tế được xác định chỉ bởi một tiêu chuẩn duy nhất, đó là các bên giao kết hợp đồng có trụ sở thương mại đặt ở các nước khác nhau (không quan tâm đến vấn đề quốc tịch của các bên khi xác định tính chất quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế và không đưa ra tiêu chí hàng hoá phải được chuyển qua biên giới của một nước).
    Theo quan điểm của Việt Nam:
    Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 không đưa ra tiêu chí để xác định tính chất quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế mà liệt kê những hoạt động được coi là mua bán hàng hóa quốc tế. Điều 27 nêu rõ “mua bán quốc tế được thực hiện dưới các hình thức xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập và chuyển khẩu. Mua bán hàng hoá quốc tế phải được thực hiện trên cơ sở hợp đồng bằng văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương”
    Xuất khẩu hàng hoá là việc hàng hoá được đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc đưa vào khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật” (Điều 28 Khoản 1).
    Nhập khẩu hàng hoá là việc hàng hoá được đưa vào lãnh thổ Việt Nam từ nước ngoài hoặc từ khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật” (Điều 28 Khoản 2).
    Tạm nhập, tái xuất hàng hoá là việc hàng hoá được đưa từ lãnh thổ nước ngoài hoặc từ các khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật Việt Nam, có làm thủ tục nhập khẩu vào Việt Nam và làm thủ tục xuất khẩu chính hàng hoá đó ra khỏi Việt Nam” (Điều 29 Khoản 1).
    Tạm xuất, tái nhập hàng hoá là việc hàng hoá được đưa ra nước ngoài hoặc đưa vào các khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật, có làm thủ tục xuất khẩu ra khỏi Việt Nam và làm thủ tục nhập khẩu lại chính hàng hoá đó vào Việt Nam” (Điều 29 Khoản 2).
    Chuyển khẩu hàng hoá là việc mua hàng từ một nước, vùng lãnh thổ để bán sang một nước, vùng lãnh thổ ngoài lãnh thổ Việt Nam mà không làm thủ tục nhập khẩu vào Việt Nam và không làm thủ tục xuất khẩu ra khỏi Việt Nam” (Điều 30 Khoản 1).
    Với năm khái niệm về xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập và chuyển khẩu nêu trên, có thể thấy Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 đã sử dụng tiêu chí hàng hóa phải là động sản; hàng có thể được di chuyển qua biên giới của Việt Nam hoặc qua biên giới của một nước (vùng lãnh thổ); hoặc di chuyển qua khu chế xuất, khu vực hải quan riêng . để xem xét tính quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
    Như vậy, nếu đối tượng của hợp đồng mua bán là bất bộng sản thì hợp đồng đó không phải là hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế cho dù bất động sản được bán cho người nước ngoài. Mua bán bất động sản với người nước ngoài phải theo một cơ chế pháp lý riêng.
    1.2. Điều kiện hiệu lực hợp đồng
    Theo Điều 81 của Luật Thương mại Việt Nam, hợp đồng mua bán quốc tế có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
    + Chủ thể của hợp đồng là bên mua và bên bán phải có đủ tư cách pháp lý: Chủ thể của hợp đồng mua bán quốc tế theo Nghị định 57/1998/NÐ - CP ngày 31/7/1998, phải là doanh nghiệp đã có đăng ký kinh doanh và đã đăng ký kinh doanh XNK tại Cục hải quan tỉnh, thành phố. Doanh nghiệp không được phép xuất nhập khẩu những mặt hàng cấm xuất nhập khẩu. Ðối với mặt hàng được phép NK, XK có điều kiện, họ phải xin được hạn ngạch hoặc được cấp giấy phép.
    + Hàng hoá theo hợp đồng là hàng hoá được phép mua bán theo quy định của pháp luật: đối tượng hợp đồng phải là hàng được phép xuất nhập khẩu theo các văn bản pháp luật hiện hành.
    Hợp đồng mua bán quốc tế phải có các nội dung chủ yếu mà luật pháp đã quy định: tùy theo quy định của từng nước tuy nhiên trong hợp đồng có thể có các điều khoản sau: Tên hàng, Số lượng, Quy cách chất lượng, Giá cả, Phương thức thanh toán, Địa điểm và thời gian giao nhận hàng, và các điều khoản khác do hai bên quy định.
    Hình thức của hợp đồng phải là văn bản: hình thức hợp đồng
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...