Tài liệu Phân tích sự thay đổi điển nhìn của nhà văn Nam Cao trong các truyệ n ngắn: Đời thừa, Đón khách, Tră

Thảo luận trong 'Lịch Sử' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    172
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Phân tích sự thay đổi điển nhìn của nhà văn Nam Cao trong các truyệ n ngắn: Đời thừa, Đón khách, Trăng sáng, Bài họ c quét nhà, Nước mắt


    I. MỞ ĐẦU

    Nam Cao tên thật là Trần Hữu Trí (1915 – 1951), sinh ra ở làng Đại Hoàng thuộc tổng cao Đà, huyện Nam Sang, phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nam (nay thuộc xã Hoà Hậu – Lý Nhân – Hà Nam). Nam Cao có sáng tác đăng báo từ 1936, những sự nghiệp văn học của ông chỉ thực sự bắt đầu từ truyện ngắn “Chí Phèo” (1941). Sáng tác trư­ớc cách mạng của Nam Cao tập trung vào hai đề tài chính: Cuộc sống người trí thức tiểu t­ sản nghèo và cuộc sống ng­ời nông dân ở quê hương. Ở bài viết nhỏ này, em xin làm ở mảng đề tài cuộc sống trí thức tiểu tư­ sản nghèo của Nam Cao trong đó có các truyện ngắn như­:
    1. Đời thừa.
    2. Đón khách.
    3. Trăng sáng.
    4. Bài học quét nhà.
    5. Nư­ớc mắt.
    Đây là những truyện ngắn của Nam Cao viết về ng­ời trí thức tiểu t­ sản nghèo. Trong những sáng tác này Nam Cao đã miêu tả hết sức chân thực tình cảm nghèo khổ, dở sống, dở chết của những nhà văn nghèo, những “giáo khổ tr­ờng tủ” học sinh thất nghiệp . nhà văn đặc biệt đi sâu vào những bi kịch tâm hồn của họ, qua đó đặt ra những vấn đề có ý nghĩa xã hội to lớn, v­ợt khỏi phạm vi của đề tài. Đó là tấm bi kịch dai dẳng, thầm lặng mà đau đớn của ng­ời trí thức có ý thức sâu sắc về giá trị sự sống và nhân phẩm, có hoài bão lớn về một sự nghiệp tinh thần, nh­ng lại bị gánh nặng cơm áo và hoàn cảnh xã hội ngột ngạt làm cho “chết mòn” phải sống cuộc sống “đời thừa”. Những tác phẩm đó đã phê phán sâu sắc xã hội phi nhân đạo bóp nghẹt sự sống, tàn phá tâm hồn con ng­ời, đồng thời đã thể hiện sự tự đấu tranh bên trong của ng­ời trí thức tiểu t­ sản trung thực cố v­ơn tới một cuộc sống đẹp đẽ, thực sự có ý nghĩa xứng đáng là cuộc sống con ng­ời.
    Có thể nói, dù viết về ng­ời trí thức nghèo hay về ng­ời nông dân cùng khổ. Nam Cao luôn day dứt tới đau đớn tr­ớc tình trạng con ng­ời bị sói mòn về nhân phẩm thậm chí bị huỷ diệt cả nhân tính, trong cái xã hội phi nhân đạo đ­ơng thời.
    Truyện ngắn “Trăng sáng” (1943) đ­ợc coi là tuyên ngôn nghệ thuật của Nam Cao tr­ớc cách mạng, ông viết “chao ôi! Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than . ”. Theo Nam Cao, ng­ời cầm bút không đ­ợc “trốn tránh sự thực, mà cứ đứng trong lao khổ, mở hồn ra đón lấy tất cả những vang động của đời”.
    Còn trong truyện ngắn “Đời thừa” (1943) Nam Cao cho rằng một tác phẩm “thật giá trị” thì phải có một nội dung sâu sắc: “Nó phải chứa đựng đ­ợc một cái gì lớn lao, mạng mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng th­ơng, tình bác ái, sự công bình . ”. Nó làm cho ng­ời gần ng­ời hơn.
    Trong ba truyện ngắn còn lại: “Đón khách”, “Bài học quét nhà”, “N­ớc mắt”, tuy rằng những truyện ngắn này không đi sâu vào cuộc sống của ng­ời trí thức nh­ng cũng phần nào nói lên cuộc sống khổ cực về cơm áo, gạo tiền, day dứt trăn trở về cuộc sống.
    Từ đầu đến cuối truyện (trong chuyện trên) tác giả Nam Cao đã có sự thay đổi điểm nhìn của các truyện nói chung, mỗi truyện nói riêng.











    II. NỘI DUNG

    1. Trăng sáng
    Truyện ngắn “Trăng sáng” đ­ợc viết năm 1943, truyện viết về ng­ời trí thức nghèo Điền là nhân vật chính xuyên suốt tác phẩm. Điền là nhân vật đại diện cho anh trí thức nghèo trong các truyện ngắn viết về ng­ời trí thức của Nam Cao.
    Điền là anh giáo khổ tr­ờng t­, nh­ng nay đã thất nghiệp tiền dạy học tháng cuối ch­a thu đ­ợc của học sinh, lai bị ông hiệu tr­ởng nợ mất nửa tháng l­ơng không có tiền trả Điền, ông bảo Điền mang bộ ghế mây của ông về dùng. Bất đắc dĩ Điền phải cầm bốn chiếc ghế mây vì Điền rất nể ông hiệu tr­ởng. Đoạn đầu truyện Nam Cao đã diễn tả cuộc sống của Điền rất êm đẹp, đầy lãng mạn với bốn chiếc ghế mây bắt ra sân ngồi ngắm trăng. Điền luôn suy nghĩ và mơ mộng, Điền yêu trăng, anh cho rằng trăng và cái gì đó rất cao đẹp và thơ mộng. Điền không ân hận vì bố mẹ đã mất nhiều tiền của cho anh ăn học giờ anh chẳng làm đ­ợc gì, nh­ng có một điều anh luôn tin rằng cái việc hoc của anh đã giúp ích cho anh nhiều lắm, nhờ nó mà anh đọc nổi văn thơ và nhờ văn thơ mà anh hiểu đ­ợc cái đẹp của gió của trăng. Anh cảm thấy cuộc đời nh­ vậy là anh toại nguyện, anh hơn ng­ời, anh vui vẻ, nh­ng ng­ợc lại với ng­ời vợ thì lúc này Nam Cao lại có cái nhìn khác, tác giả nh­ hoá thân vào chính nhân vật để nhân vật ấy tức Điền có một cách nhìn nhận về vợ anh, anh phàn nàn cho những tâm hồn cằn cỗi nh­ tâm hồn của vợ Điền. Đối với thị trăng chỉ là . đỡ tốn 2 xu dầu mỗi tối. Hai xu dầu chẳng là bao nh­ng thị nghĩ m­ời cái hai xu cũng là khá nhiều. “những kẻ chỉ suốt đời tính toán là những kẻ tự làm khổ thân suốt đời” anh vẫn trách vợ anh nh­ vậy. Nh­ng chính lúc này đây anh lại có những suy nghĩ và cách nhìn nhận khác anh lúc ban đầu. Và ngay lúc này lúc ngồi ngắm trăng để tạm quên đi những lo toan th­ờng ngày, lo toan cho cuộc sống, cái lo nhỏ nhen của kiếp ng­ời, Điền cũng còn tính vẩn vơ, Điền ­ớc có một thật thanh bình, đơn giản, để cho anh không còn phải lo tính kế nữa và anh có thể rảnh rang theo đuổi cái mộng của anh . đó là cái mộng văn ch­ơng. Nh­ng đó chỉ là ­ớc mơ Điền không bao giờ thực hiện đ­ợc bởi cuộc sống cơm áo không cho phép anh theo đuổi sự nghiệp mà anh từng mơ
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...