Tiểu Luận Phân tích nguyên tắc tập trung – dân chủ và chỉ ra ý nghĩa của nguyên tắc này trong quản lý hành chí

Thảo luận trong 'Hành Chính' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    172
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    MỤC LỤC
    LỜI MỞ ĐẦU 2
    NỘI DUNG 2
    I. Một số quan điểm hiện nay về nguyên tắc tập trung - dân chủ 2
    II. Phân tích nguyên tắc tập trung – dân chủ 3
    1. Cơ sở pháp lý của nguyên tắc 3
    2. Biểu hiện của nguyên tắc tập trung – dân chủ trong quản lí hành chính nhà nước 4 2.1. Sự phụ thuộc của cơ quan hành chính nhà nước vào cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp 4 2.2. Sự phục tùng của cấp dưới đối với cấp trên, địa phương đối với trung ương .5 2.3. Việc phân cấp quản lý .6 2.4. Hướng về cơ sở .8 2.5. Sự phụ thuộc hai chiều của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương .9 III. Ý nghĩa của nguyên tắc tập trung – dân chủ trong quản lý hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay .10 LỜI KẾT .11
    DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 12

    ​ ​ ​ ​ ​ ​ ​
    LỜI MỞ ĐẦU​ Nguyên tắc trong quản lí hành chính nhà nước là tổng thể các quy phạm pháp luật hành chính có nội dung là những tư tưởng chủ đạo làm cơ sở để tổ chức thực hiện hoạt động quản lí hành chính nhà nước. Các nguyên tắc cơ bản trong quản lí hành chính nhà nước có nội dung rất đa dạng, có tính thống nhất và liên hệ chặt chẽ với nhau. Một trong những nguyên tắc cơ bản đó là nguyên tắc tập trung – dân chủ, hoạt động quản lý hành chính nhà nước phải được tổ chức thực hiện trên cơ sở tuân thủ nội dung của nguyên tắc này. Do vậy, việc tìm hiểu nội dung và ý nghĩa của nguyên tắc tập trung – dân chủ là hết sức cần thiết. Xuất phát từ nhận thức trên em đã chọn đề tài: “Phân tích nguyên tắc tập trung – dân chủ và chỉ ra ý nghĩa của nguyên tắc này trong quản lý hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay” để phân tích trong bài làm sau đây. NỘI DUNGI. Một số quan điểm hiện nay về nguyên tắc tập trung - dân chủ. Có thể thấy, hiện nay còn nhiều ý kiến chưa thống nhất về nguyên tắc tập trung – dân chủ. Cụ thể: Ý kiến thứ nhất cho rằng nội dung của nguyên tắc này là sự kết hợp hai yếu tố tập trung và dân chủ trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước. Tập trung dân chủ là hai mặt của một thể thống nhất, không bao giờ được phép cường điệu hoặc coi nhẹ bất cứ mặt nào. Nếu thiên về tập trung mà không chú trọng đến dân chủ sẽ dẫn đến tập trung quan liêu, chuyên quyền, độc đoán. Ngược lại, nếu thiên về dân chủ mà coi nhẹ tập trung sẽ dẫn đến sự tùy tiện làm cho hoạt động của bộ máy nhà nước kém hiệu quả. Ý kiến thứ hai cho rằng nguyên tắc tập trung dân chủ là “sự” tập trung “một cách” dân chủ. Nguyên tắc này thể hiện sự tập trung trên cơ sở dân chủ chân chính, kết hợp sáng tạo với sự thực hiện, chấp hành nghiêm chỉnh và tinh thần trách nhiệm, ý thức kỷ luật cao. Ý kiến thứ ba cho rằng nguyên tắc tập trung dân chủ được biểu hiện cụ thể là việc thủ trưởng có toàn quyền quyết định các vấn đề của cơ quan trên cơ sở đóng góp ý kiến của nhân viên. Hay nói một cách khác, việc đóng góp ý kiến của cán bộ, công nhân viên, các thành viên trong cơ quan, đơn vị chỉ có ý nghĩa tham khảo và việc quyết định thuộc thẩm quyền của thủ trưởng. Theo ý kiến chủ quan của bản thân, cá nhân em thấy ý kiến thứ nhất là hợp lí khi nói về nguyên tắc tập trung – dân chủ, đó là nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý hành chính nhà nước là sự kết hợp giữa hai yếu tố tập trung và dân chủ. Bởi ý kiến này nêu lên nội dung cốt lõi của nguyên tắc này và phù hợp với bản chất của Nhà nước ta. II. Phân tích nguyên tắc tập trung – dân chủ. 1. Cơ sở pháp lý của nguyên tắc. Nguyên tắc tập trung - dân chủ được quy định ở Điều 6 Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001): “Quốc hội, hội đồng nhân dân và các cơ quan khác của Nhà nước đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ”. Nguyên tắc này bao hàm sự kết hợp giữa hai yếu tố tập trung và dân chủ, nghĩa là vừa đảm bảo sự lãnh đạo tập trung trên cơ sở dân chủ; vừa đảm bảo mở rộng dân chủ dưới sự lãnh đạo tập trung. Cụ thể: Trong quản lý hành chính nhà nước, tập trung nhằm đảm bảo thâu tóm quyền lực nhà nước vào chủ thể quản lý để điều hành, chỉ đạo việc thực hiện chính sách, pháp luật một cách thống nhất. Trong khi đó, dân chủ hướng tới việc mở rộng quyền cho đối tượng quản lý nhằm phát huy trí tuệ tập thể trong hoạt động quản lý, phát huy khả năng tiềm tàng của đối tượng quản lý trong quá trình thực hiện chính sách, pháp luật. Cả hai yếu tố tập trung và dân chủ phải có sự phối hợp một cách đồng bộ, chặt chẽ với nhau trong quản lý hành chính Nhà nước. Nếu chỉ có sự lãnh đạo tập trung mà không mở rộng dân chủ thì sẽ dẫn đến chuyên quyền, độc đoán và tạo điều kiện cho các hành vi lạm quyền, tệ quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng phát triển. Ngược lại, không có sự lãnh đạo tập trung thống nhất sẽ dẫn đến tình trạng lạm dụng dân chủ, tùy tiện, vô chính phủ, cục bộ địa phương. Trong điều kiện hiện nay sự lãnh đạo tập trung trên cơ sở dân chủ là yêu cầu khách quan của việc “thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” (Điều 15 Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001)). 2. Biểu hiện của nguyên tắc tập trung – dân chủ trong quản lí hành chính nhà nước. Nguyên tắc tập trung dân chủ bao hàm sự kết hợp giữa hai yếu tố tập trung và dân chủ. Tuy nhiên, đây không phải là sự tập trung toàn diện và tuyệt đối, mà chỉ đối với những vấn đề cơ bản, chính yếu nhất, bản chất nhất.Sự tập trung đó bảo đảm cho cơ quan cấp dưới, cơ quan địa phương có cơ sở và khả năng thực hiện quyết định của trung ương; đồng thời, căn cứ trên điều kiện thực tế của mình, có thể chủ động sáng tạo trong việc giải quyết các vấn đề của địa phương và cơ sở. Cả hai yếu tố này vì thế phải có sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ. Chúng có mối quan hệ qua lại, phụ thuộc và thúc đẩy nhau cùng phát triển trong quản lý hành chính nhà nước. Từ đó, nguyên tắc tập trung – dân chủ trong quản lý hành chính nhà nước biểu hiện cụ thể ở những nội dung sau: 2.1. Sự phụ thuộc của cơ quan hành chính nhà nước vào cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp. Trong tổ chức và hoạt động các cơ quan hành chính nhà nước luôn có sự phụ thuộc vào cơ quan quyền lực nhà nước. · Về mặt tổ chức: Yếu tố tập trung được thể hiện trong việc đảm bảo tập trung quyền lực vào hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước - cơ quan do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Cơ quan quyền lực nhà nước có quyền hạn định nhất định trong việc thành lập, sáp nhập hay giải thể các cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp. Ở trung ương, Quốc hội thành lập ra Chính phủ và trao cho nó quyền hành pháp. Ở địa phương, các ủy ban nhân dân do hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra (Điều 123 Hiến pháp 1992) và thực hiện hoạt động quản lí hành chính nhà nước. Các cơ quan khác trong hệ thống cơ quan hành chính nhà nước (như bộ, cơ quan ngang bộ ) đều do cơ quan quyền lực nhà nước trực tiếp hay gián tiếp quyết định thành lập, thay đổi hay bãi bỏ. Bên cạnh đó, yếu tố dân chủ thể hiện rõ nét trong việc cơ quan hành chính nhà nước được tự quyết định vấn đề về tổ chức trong phạm vi của mình. Ví dụ, Chính phủ có quyền quyết định việc thành lập, sáp nhập, giải thể cơ quan thuộc Chính phủ; quy định nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ (khoản 3 Điều 16 Luật tổ chức Chính phủ năm 2001); các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức, biên chế và công tác của Ủy ban nhân dân cùng cấp. · Về mặt hoạt động: Yếu tố tập trung được thể hiện là: Trong hoạt động các cơ quan hành chính nhà nước luôn chịu sự chỉ đạo, giám sát của hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước và chịu trách nhiệm báo cáo hoạt động của mình trước cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp. Sự phụ thuộc nêu trên là nhằm mục đích bảo đảm cho hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước phù hợp với nguyện vọng và lợi ích của nhân dân lao động Bên cạnh đó yếu tố dân chủ thể hiện rõ nét trong việc cơ quan quyền lực nhà nước trao quyền chủ động sáng tạo cho các cơ quan hành chính nhà nước trong việc chỉ đạo thực hiện hiến pháp, luật và các văn bản khác của cơ quan quyền lực nhà nước. Các cơ quan quyền lực nhà nước không can thiệp vào hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước mà tạo điều kiện thuận lợi cần thiết để các cơ quan này hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ của mình là quản lý hành chính nhà nước trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. 2.2. Sự phục tùng của cấp dưới đối với cấp trên, địa phương đối với trung ương Sự phục tùng này đảm bảo cho cấp trên và trung ương tập trung quyền lực để chỉ đạo, giám sát hoạt động của cấp dưới và của địa phương. Thiếu sự phục tùng đó sẽ dẫn đến việc buông lỏng sự lãnh đạo, quản lý tập trung của trung ương và cấp trên, làm nảy sinh tình trạng tùy tiện, vô chính phủ, cục bộ địa phương. Sự phục tùng này biểu hiện ở cả hai phương diện tổ chức và hoạt động. · Về phương diện tổ chức: Sự phục tùng của cấp dưới đối với cấp trên được biểu hiện là người đứng đầu cơ quan hành chính cấp trên có quyền phê chuẩn nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp về việc bầu Ủy ban nhân dân; có quyền điều động, miễn nhiệm, cách chức đối với Chủ tịch, Phó Chủ tịch cơ quan hành chính cấp dưới trực tiếp; phê chuẩn việc miễn nhiệm, bãi nhiệm các thành viên khác của cơ quan hành chính cấp dưới trực tiếp. Ví dụ: theo khoản 5 Điều 20 Luật tổ chức Chính phủ năm 2001, Chính phủ có quyền “phê chuẩn việc bầu cử các thành viên Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; miễn nhiệm, điều động, cách chức Chủ tịch, các Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; phê chuẩn việc miễn nhiệm, bãi nhiệm các thành viên khác của Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương”. Tuy nhiên, sự phục tùng ở đây không phải là sự phục tùng vô điều kiện mà là sự phục tùng những mệnh lệnh hợp pháp trên cơ sở quy định của pháp luật. Đồng thời cấp trên, trung ương cũng phải tôn trọng ý kiến của cấp dưới, địa phương về công tác tổ chức trong quản lí hành chính nhà nước. · Về phương diện hoạt động: Sự phục tùng được thể hiện là cơ quan hành chính nhà nước cấp dưới chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát của cơ quan hành chính nhà nước cấp trên. Theo Điều 7, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003 qui định: “Uỷ ban nhân dân cấp dưới chịu sự chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân cấp trên. Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh chịu sự chỉ đạo của Chính phủ”. Mặt khác, cấp trên, trung ương cũng phải tôn trọng ý kiến của cấp dưới, địa phương về hoạt động và về các vấn đề khác của quản lý hành chính nhà nước, phải tạo mọi điều kiện để cấp dưới, địa phương phát huy sự chủ động, sáng tạo nhằm huy động mọi khả năng về trí tuệ, lao động để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Có như vậy mới khắc phục được tình trạng quan liêu, áp đặt ý chí; đồng thời không làm mất đi tính chủ động sáng tạo, tự chịu trách nhiệm của địa phương và cấp dưới. 2.3. Việc phân cấp quản lý Phân cấp quản lý là sự chuyển giao thẩm quyền từ cấp trên xuống cấp dưới nhằm đạt được một cách có hiệu quả mục tiêu chung của hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Khi tiến hành phân cấp quản lý, đã có sự phân định rõ chức trách, nhiệm vụ quyền hạn của các cấp trong bộ máy hành chính nhà nước. Mỗi cấp quản lý có những mục tiêu, nhiệm vụ, thẩm quyền và những phương tiện cần thiết để thực hiện tốt những mục tiêu, nhiệm vụ của cấp mình. Trong phạm vi thẩm quyền được giao mỗi cấp quản lý được phép tiến hành những hoạt động nhất định nhằm phát huy tính năng động sáng tạo của mình. Phân cấp quản lý là một biểu hiện của nguyên tắc tập trung – dân chủ. Tuy nhiên, điều này chỉ thực sự được thực hiện khi việc phân cấp quản lý đảm bảo được những yêu cầu sau đây: Thứ nhất: Việc phân cấp quản lý phải đảm bảo cho trung ương có quyền quyết định trong những lĩnh vực then chốt, những vấn đề có ý nghĩa chiến lược nhằm đảm bảo sự phát triển cân đối và hài hòa của toàn xã hội, bảo đảm sự quản lý tập trung và thống nhất của Nhà nước trong phạm vi toàn quốc. Với việc thực hiện phân cấp quản lí sẽ đảm bảo cho cơ quan trung ương làm đúng chức năng của mình, chủ yếu tập trung vào hoạch định chính sách vĩ mô; xây dựng thể chế; thanh tra, kiểm tra. Cụ thể, Chính phủ và các Bộ sẽ làm đúng chức năng, nhiệm vụ của mình là quản lý vĩ mô các lĩnh vực đời sống kinh tế - xã hội, chỉ đạo thống nhất trong cả nước và làm tốt công tác kiểm tra, thanh tra. Thứ hai: Mạnh dạn giao quyền cho các địa phương, các đơn vị cơ sở để phát huy tính chủ động, tích cực và sáng tạo trong quản lý, tích cực phát huy sức người, sức của, đẩy mạnh sản xuất và phục vụ đời sống, trên cơ sở đó hoàn thành mọi nhiệm vụ được trung ương và cấp trên giao phó. Mạnh dạn phân cấp cho địa phương và cơ sở là biện pháp bảo đảm tập trung dân chủ, tránh cho trung ương và cấp trên phải ôm đồm các công việc mang tính sự vụ thuộc về chức trách của địa phương và cơ sở. Việc phân cấp quản lí cần đảm bảo cho các cơ quan ở địa phương chủ động trong quản lý, tổ chức thực hiện, có thể tự đề ra các chủ trương cụ thể phù hợp với tình hình, điều kiện của địa phương mình. Bên cạnh đó, cần đảm bảo địa phương sẽ có sự chủ động về nguồn lực tài chính, tổ chức và cán bộ thực hiện. Từ đó đảm bảo khắc phục tình trạng các cơ quan quản lý trung ương can thiệp quá sâu vào công việc của địa phương. Thứ ba: Việc phân cấp quản lý phải thật cụ thể, hợp lý trên cơ sở những quy định của pháp luật. Ví dụ: Trong lĩnh vực đất đai, việc phân cấp quản lí chỉ thực sự là biểu hiện của nguyên tắc tập trung – dân chủ khi đảm bảo Chính phủ có thẩm quyền lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của cả nước. Chính quyền địa phương được trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ cụ thể về quản lý nhà nước đối với đất đai, tài nguyên trên địa bàn; chịu trách nhiệm quản lý sự biến động đất và thanh tra, kiểm tra việc sử dụng đất trên địa bàn. Đồng thời, cần đảm bảo việc phân cấp quản lí trong lĩnh vực đất đai là trên cơ sở những qui định của pháp luật, mà cụ thể là Luật đất đai năm 2003. Phân cấp quản lý giữa các cấp trong bộ máy quản lý hành chính nhà nước là công việc hết sức phức tạp đòi hỏi phải xem xét từ nhiều yếu tố và góc độ khác nhau như: cơ sở kinh tế, xã hội, trình độ phát triển đồng đều về kinh tế, kết cấu hạ tầng, giao thông, thông tin, liên lạc, các yếu tố về dân tộc, trình độ dân trí, trình độc của đội ngũ cán bộ quản lý ở địa phương và cơ sở Do đó, cần phải có sự cân nhắc, tính toán kĩ lưỡng, hợp lý trong việc ban hành các quyết định về phân cấp quản lý, tránh đưa ra những quyết định mang tính chung chung, tùy tiện. 2.4. Hướng về cơ sở Hướng về cơ sở chính là việc các cơ quan hành chính nhà nước mở rộng dân chủ trên cơ sở quản lý tập trung đối với hoạt động của toàn bộ hệ thống các đơn vị kinh tế, văn hóa - xã hội trực thuộc. Tính chất dân chủ ở đây được thể hiện là Nhà nước luôn quan tâm, cung cấp những trang thiết bị cần thiết để hoạt động, giúp đỡ về vật chất, tinh thần nhằm tạo ra những điều kiện tốt nhất để các đơn vị văn hóa – xã hội của hệ thống các đơn vị cơ sở hoạt động có hiệu quả. Bởi các đơn vị đó, trước hết là những tế bào của nền kinh tế quốc dân, nơi trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất, được Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu các tài sản hợp pháp, có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, đồng thời cũng được Nhà nước hướng dẫn, giúp đỡ về mặt vật chất, tinh thần Bên cạnh đó, Nhà nước cũng có các chính sách và biện pháp quản lý một cách thống nhất và chặt chẽ tổ chức và hoạt động của hệ thống các đơn vị cơ sở. Cụ thể, Nhà nước thực hiện công tác quản lí hành chính bằng việc ban hành các văn bản pháp luật để tạo khung pháp lí, đồng thời tiến hành cấp phép hoạt động và kiểm tra đối với các đơn vị cơ sở. Có như vậy mới thúc đẩy mọi hoạt động của các đơn vị kinh tế, văn hóa – xã hội này phát triển một cách mạnh mẽ theo đúng định hướng của Nhà nước. 2.5. Sự phụ thuộc hai chiều của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương Các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương đều được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc phụ thuộc hai chiều hay còn gọi là nguyên tắc song trùng trực thuộc. Sự phụ thuộc này thể hiện ở cả hai mặt tổ chức và hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương và được pháp luật quy định một cách cụ thể. Ở địa phương, ủy ban nhân dân các cấp trước hết phụ thuộc vào hội đồng nhân dân cùng cấp (mối phụ thuộc ngang). Đồng thời chúng còn phụ thuộc vào cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung ở cấp trên trực tiếp (mối phụ thuộc dọc). sự phụ thuộc này thể hiện ở hai mặt tổ chức và hoạt động của ủy ban nhân dân. Cụ thể: · Về mặt tổ chức: Ủy ban nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra. Kết quả của việc bầu các thành viên của Ủy ban nhân dân phải được Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp trên trực tiếp phê chuẩn; kết quả của việc bầu thành viên của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phải được Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn (Điều 119 Luật tổ chức hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân năm 2003). · Về mặt hoạt động: Ủy ban nhân dân chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân cùng cấp và Ủy ban nhân dân cấp trên trực tiếp; Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước hội đồng nhân dân cùng cấp và Chính phủ (Điều 120 Luật tổ chức hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân năm 2003). Đối với cơ quan chuyên môn, một mặt phụ thuộc vào cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung cùng cấp, mặt khác nó phụ thuộc vào cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chuyên môn cấp trên trực tiếp.Ví dụ: - Sở Tư pháp tỉnh Hưng Yên một mặt phụ thuộc vào Uỷ ban nhân dân tỉnh Hưng Yên, mặt khác phụ thuộc vào Bộ Tư pháp. Mối phụ thuộc ngang tạo điều kiện cần thiết cho cấp dưới phát huy dân chủ, phát huy thế mạnh của địa phương để hoàn thành nhiệm vụ mà cấp trên đã giao phó. Mối phụ thuộc dọc giúp cho cấp trên có thể tập trung quyền lục nhà nước để chỉ đạo hoạt động của cấp dưới tạo nên một hoạt động chung thống nhất. Từ đó có thể thấy nguyên tắc phụ thuộc hai chiều của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương nhằm đảm bảo sự thống nhất giữa lợi ích chung của cả nước và lợi ích của địa phương, giữa lợi ích ngành với lợi ích vùng lãnh thổ. III. Ý nghĩa của nguyên tắc tập trung – dân chủ trong quản lý hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay. Điều 2 Hiến pháp 1992 khẳng định: “ Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp nhân dân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức”. Như vậy, nhà nước ta là nhà nước chuyên chính vô sản, theo chế độ xã hội chủ nghĩa. Áp dụng nguyên tắc tập trung- dân chủ trong quản lí nhà nước nói chung và trong quản lí hành chính nói riêng là điều tất yếu và rất cần thiết. Việc áp dụng nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lí hành chính nhà nước hiện nay nó có ý nghĩa rất lớn. Thứ nhất, nguyên tắc tập trung - dân chủ nó là nguyên tắc cơ bản, đóng vai trò là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt trong quá trình thực hiện quản lý nhà nước, quản lí xã hội. Trong quản lí hành chính thì nguyên tắc này nó đảm bảo cho sự tập trung quyền lực nhà nước vào chủ thể quản lí quản lí để điều hành, chỉ đạo việc thực hiện chính sách, pháp luật một cách thống nhất, đồng thời nguyên tắc này, đảm bảo việc mở rộng quyền cho đối tượng quản lí nhằm phát huy trí tuệ tập thể trong hoạt động quản lí, phát huy khả năng tiềm tàng của đối tượng quản lí trong quá trình thực hiện chính sách, pháp luật. Như vậy, mặc dù nguyên tắc tập trung dân chủ là một nguyên tắc quản lí hành chính nhà nước mang tính chất chỉ đạo hoạt động nhận thức và cải tạo xã hội nhưng khi vận dụng vào thực tế, nguyên tắc này đã giúp cho công tác quản lí hành chính nhà nước đạt được những hiệu quả rất tốt trong việc tăng hiệu quả hoạt động của công tác quản lí hành chính nhà nước. Thứ hai, nội dung của nguyên tắc này quy định những đặc điểm chung, mang tính quy luật khách quan trong hoạt động của hệ thống quản lí xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, nó phản ánh sự thống nhất giữa cơ sở tư tưởng, chiến lược và tổ chức của xã hội chủ nghĩa. Việc áp dụng nguyên tắc tập trung - dân chủ trong quản lí hành chính nhà nước đã giúp cho việc thực hiện quyền lực làm chủ của nhân dân (thông qua các cơ quan quyền lực nhà nước ở trung ương và địa phương) hoàn thiện hơn, người dân có thể thực hiện quyền giám sát của mình một cách hữu hiệu, tạo nên một cơ chế đảm bảo cho quần chúng tích cực tham gia vào công tác quản lí hành chính nhà nước. Tuy nhiên, cần lưu ý là việc áp dụng yếu tố dân chủ nhưng không thể loại trừ trách nhiệm cá nhân, nghĩa là, dân chủ nhưng phải gắn với trách nhiệm của từng cá nhân cụ thể, trong công việc nhất định, thời gian nhất định. Thứ ba, việc áp dụng nguyên tắc tập trung - dân chủ trong quản lí hành chính nhà nước cũng tạo nên một sự thống nhất về ý chí trong việc quản lí hành chính nhà nước, tạo ra sự nhịp nhàng, ăn khớp giữa các cơ quan, ngành khối trong toàn xã hội mà vẫn bảo đảm để cho các địa phương trong nước có quyền tự do tương đối trong việc định ra các hình thức phát triển khác nhau phù hợp với địa phương của mình. Tạo nên một sức mạnh tổng thể cho đất nước. LỜI KẾT​ Tập trung – dân chủ là một nguyên tắc đóng vai trò quan trọng quản lí hành chính nhà nước. do vậy việc tìm hiểu nghiên cứu nguyên tắc tập trung – dân chủ có ý nghĩa lý luận và thực tiễn vô cùng quan trọng đối với công tác quản lý xã hội và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Bởi chỉ có như vậy, bản chất ưu việt của chế độ mới được phát huy, sức mạnh của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mới được thực thi và sức sáng tạo của người dân mới được tôn trọng và giải phóng. ​ ​ ​ ​ ​ ​ DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO**************************​ 1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật hành chính Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà nội, 2011. 2. Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Giáo trình Luật hành chính Việt Nam, NXB Đại học quốc gia, Hà Nội, 2005. 3. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình lí luận nhà nước và pháp luật 4. ThS. Hoàng Văn Sao , Phân cấp, phân quyền trong quản lí hành chính nhà nước , Tạp chí Luật học Số 4 /2002, tr.41 – 44. 5. Vũ Văn Khiêm, Nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của cơ quan nhà nước, Tạp chí khoa học pháp lí, số 3/2004. 6. http://www.ddd.com.vn
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...