Tiểu Luận Phân tích lý luận giá trị lao động của trường phái cổ điển tư sản anh. Mác đã kế thừa và phát triển

Thảo luận trong 'Các Môn Khác' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Phân tích lý luận giá trị lao động của trường phái cổ điển tư sản anh. Mác đã kế thừa và phát triển lý luận này như thế nào

    PHÂN TÍCH LÝ LUẬN GIÁ TRỊ LAO ĐỘNG CỦA TRƯỜNG PHÁI CỔ ĐIỂN TƯ SẢN ANH. MÁC ĐÃ KẾ THỪA VÀ PHÁT TRIỂN LÝ LUẬN NÀY NHƯ THẾ NÀO
    Lời nói đầu
    Trong bối cảnh vào cuối thế kỷ XVIII, ở các nước Anh và Pháp, học thuyết kinh tế cổ điển xuất hiện. Vào thời kỳ này sau khi tích luỹ được một số lớn tiền tệ, giai cấp tư sản tập trung vào phát triển lĩnh vực sản xuất. Vì vậy, các công trường thủ công trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp và nông nghiệp phát triển mạnh mẽ, diễn ra việc tước đoạt ruộng đất của nông dân, hình thành giai cấp vô sản và chủ chiếm hữu ruộng đất. Song song với đó là sự tồn tại của chủ nghĩa phong kiến không chỉ kìm hãm sự phát triển của chủ nghĩa tư bản mà còn làm sâu sắc hơn mâu thuẫn giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa phong kiến. Bên cạnh đó, nếu thời kỳ chủ nghĩa trọng thương, người ta chỉ tập trung vào khâu lưu thông thì thời kỳ này đã chuyển dần sang sản xuất. Nhiều vấn đề kinh tế được đặt ra của quá trình sản xuất vượt ra ngoài giới hạn giải thích của lý thuyết kinh tế trọng thương. Điều này phải có lý thuyết kinh tế soi đường và học thuyết kinh tế cổ điển Anh ra đời mà đại biểu chủ yếu là các nhà kinh tế học William Petty, Adam Smith và David Ricardo. Trong phạm vi bài này chúng ta chỉ nói đến quan điểm về giá trị lao động của ba nhà kinh tế học cổ điển này.
    Các nguồn tài nguyên khác cũng chỉ là địa bàn của lao động, là một tư liệu lao động tham gia vào quá trình tạo ra giá trị sử dụng của hàng hoá. Thực thể giá trị của hàng hoá không chỉ đơn giản là hao phí năng lượng thần kinh, bắp thịt hiểu theo nghĩa sinh lý mà là lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hoá, tức là một hình thái lịch sử nhất định của lao động xã hội gắn liền với nền sản xuất hàng hoá. Đại lượng của giá trị được xác định không phải bằng thời gian lao đông cá biệt mà bằng thời gian lao động xã hội cần thiết. Tất cả những điều này chứng minh rằng: giá trị không phải là thuộc tính tự nhiên mà là thuộc tính xã hội của hàng hoá, nó biểu hiện các quan hệ sản xuất giữa những người sản xuất hàng hoá thông qua các vật phẩm lao động của họ. Chính V.I.Lenin đã chỉ rõ: phàm ở chỗ nào các nhà kinh tế học tư sản nhìn thấy quan hệ giữa vật với vật ( hàng hoá này đổi lấy hàng hoá khác ), thì ở chỗ đó, Mác tìm thấy quan hệ giữa người với người. Sự trao đổi hàng hoá thể hiện mối liên hệ giữa những người sản xuất riêng lẻ với nhau, do thị trường làm trung gian.
    Tóm lại, các học thuyết gía trị lao động của các nhà kinh tế học trường phái kinh tế cổ điển Anh đã có những đóng góp không nhỏ trong phân tích các khái niệm và các quy luật kinh tế của nền sản xuất hàng hoá. Trên cơ sở kế thừa có phê phán của học thuyết này, C.Mác lần đầu tiên đã phát hiện ra tính hai mặt của sản xuất hàng hoá, tạo thành một cuộc cách mạng trong kinh tế chính trị học. Bên cạnh đó, với lý luận xuất phát là lý luận giá trị vân dụng vào trong điều kiện chủ nghĩa tư bản Mác đã xây dựng nên học thuyết giá trị thặng dư, học thuyết về tích luỹ tư bản, học thuyết về tái sản xuất . từ đó làm sáng tỏ nhiều vấn đề kinh tế có liên quan đến việc xác định bản chất của chủ nghĩa tư bản cũng như xác định xu hướng vận động của nó. Cũng trên cơ sở các quan điểm mà Mác đã phát triển và đưa ra hàng loạt các quan niệm chuẩn xác về các quy luật trong nền kinh tế sản xuất hàng hoá, hình thành nên học thuyết Mác mà giá trị của nó vô cùng to lớn trong kho tàng trị thức của nhân loại.
    Thứ nhất là quan niệm về giá trị lao động của William Petty ( 1623-1687 ). Ông là một con người học rộng biết nhiều và sinh ra trong một gia đình thợ thủ công, có trình độ tiến sĩ vật lý, là người phát minh ra máy móc, là đại địa chủ đồng thời là nhà đại công nghiệp. Ông là người áp dụng phương pháp mới trong nghiên cứu khoa học, gọi là khoa học tự nhiên tức là tôn trọng và thừa nhân các quy luật khách quan, vạch ra mối liên hệ phụ thuộc, nhân quả giữa các sự vật hiện tượng. Về lý thuyết giá trị lao động, ông có công nêu ra nguyên lý của giá trị lao động. Ông đưa ra ba phạm trù về giá cả hàng hoá trong tác phẩm “ bàn về thuế khoá và lệ phí “. Đó là giá cả tự nhiên, giá cả nhân tạo và giá cả chính trị.
    Thế nào là giá cả tự nhiên? Ông viết “ một người nào đó, trong thời gian lao động khai thác được 1ounce bạc và cùng thời gian đó sản suất được 1 barrel lúa mỳ thì 1 ounce bạc được coi là giá cả tự nhiên của 1 barrel lúa mỳ. Nêu nhờ mỏ quặng phong phú tài nguyên hơn thì với thời gian lao động nói trên, bây giờ khai thác được 2 ounce bạc thì 2 ounce bạc này là giá cả tự nhiên của 1 barrel lúa mỳ. Như vậy, giá cả tự nhiên ( giá trị hàng hoá ) là do lao động hao phí của người sản suất tạo ra và vì vậy giá cả tự nhiên quyết định giá trị sản phẩm.
    Nếu giá cả tự nhiên là giá trị của hàng hoá, thì giá cả nhân tạo là giá cả thị trường của hàng hoá. Ông viết “ tỷ lệ giữa lúa mỳ và bạc chỉ là giá cả nhân tạo chứ không phải là giá cả tự nhiên “. Ông cho rằng, giá cả nhân tạo thay đổi phụ thuộc vào giá cả tự nhiên và quan hệ cung cầu trên thị trường.
    Về giá cả chính trị, ngoài yếu tố lao động hao phí nó còn phụ thuộc vào quan điểm chính trị và bối cảnh xã hội vì vậy nó là cơ sở quyết định giá cả thị trường của sản phẩm. Vì vậy, chi phí lao động trong gia cả chính trị cao hơn chi phí lao động trong giá cả tự nhiên ( giá trị ) bình thường.
     
Đang tải...