Tiểu Luận Phân tích hợp tác thương mại Việt Nam – Liên minh Châu Âu

Thảo luận trong 'Chưa Phân Loại' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Phân tích hợp tác thương mại Việt Nam – Liên minh Châu Âu

    CHƯƠNG 1
    MỘT VÀI NÉT VỀ LIÊN MINH CHÂU ÂU(EU)


    Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay trong nền kinh tế thế giới xuất hiện nhiều loại hình liên kết kinh tế . Trong đó liên minh Châu Âu ( cộng đồng Châu Âu – EU trước đây ) là khối liên kết kinh tế hình thành sớm nhất và có hiệu quả nhất . Trước ngưỡng cửa của thế kỷ 21, với GDP khoảng 8500 tỷ USD, dân số khoảng 375 triệu người chiếm giữ khoảng 40-50% sản lưởng công nghiệp của các nước tư bản phát triển EU đang trở thành một cực rất mạnh trong nền kinh tế thế giới .

    1.1. Sự hình thành và phát triển của liên minh Châu Âu .

    Ngay từ thời Saclơ đại đế thuộc đế chế La Mã ( TK8 – Sau công nguyên ) những mơ tưởng về thống nhất Châu Âu đã được hình thành . Tuy nhiên trong một thời gian dài , ý đồ thống nhất Châu Âu chỉ thuộc về một vài nhà chính trị , quân sự có nhiều tham vọng và một bộ phận các nhà tri thức . Đại bộ phận Châu Âu vẫn thờ ơ thậm chí không hề có ý tưởng gì về điều đó , mặc dù Châu Âu đã mang sẵn trong mình các yếu tố thống nhất .
    Đến năm 1923 , Bá Tước người Áo –Condenhve Kalerg đã đề nghị thành lập một liên minh Châu Âu theo kiểu Liên Bang Thuỵ Sĩ năm 1648 hay liên bang Hoa Kỳ năm 1776 năm 1929 Bộ trưởng Pháp lúc bấy giờ – Arstide Briand cũng đưa ra đề án thành lập liên minh Châu Âu . Nhưng những ý tưởng này phải mãi đế sau chiến tranh thế giới thứ hai mới trở thành hiện thực .
    Sau chiến tranh thế giới thứ hai các nước Tây Âu đều kiệt quệ về kinh tế . So với năm 1937 sản lượng của Đức 1946 chỉ bằng 31% , Italia 64% , Anh 96% . Trong khi đó nhờ chiến tranh mà kinh tế Mỹ đã phát triển vượt bậc sức mạnh kinh tế của Mỹ còn lơns hơn sức mạnh kinh tế của tất cả các nước Tây Âu gộp lại .Mặt khác sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đặc biệt là sự phát triển lực lượng sản xuất ở Mỹ đã khẳng định vị trí bá chủ toàn cầu của Mỹ . Chính bối cảnh ấy , buộc các quốc gia Tây Âu phảI tăng cường hợp tác để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển , thoát khỏi sự kiểm toạ của Mỹ và cũng là làm dịu đi bầu không khí chính trị căng thẳng ở Tây Âu , đặc biệt là giữa Pháp và Đức , phong trào giải phóng dân tộc đang dâng lên ở các nước thuộc địa và trên hết là phải đối đầu với “cộng sản ” ở nửa kia Châu Âu – các quốc gia Tây Âu không còn sự lựa chọn nào khác ngoài con đường hoà bình hợp tác với nhau .
    Ngày 9/5/1950 Ngoại trượng Pháp – Rôbe Suman đã đưa ra một sáng kiến mới khởi đầu cho tiến trình liên kết Châu Âu . Ông đề nghị “Đặt toàn bộ việc sản xuất than và thép của Đức vá Pháp dưới một cơ quan quyền lực tối cao chung trong một tổ chức mở cửa cho các nước Tây Âu khác tham gia ”
    Trên cơ sở đề nghị đó ngày 18/4/1951 ,tại Paris ,6 quốc gia Tây Âu gồm : Pháp ,Đức , Italia , Bỉ ,Hà Lan , Luych Xăm Bua đã ký Hiệp ước thành lập cộng đồng than thép Châu Âu ( có hiệu lực từ ngày 25/7/1952 ) mở ra một chương mới trong lịch sử quan hệ giữa các nước Tây Âu .
    Nhìn chung, sáu nước Tây Âu đã thực hiện thành công Hiệp ước Paris năm 1952 . Trên lĩnh vực kinh tế, từ tháng 5/ 1953 một thị trường chung than , sắt , thép cho sáu nước đã hình thành . Ngành luyện kim đạt một bước phát triển mạnh mẽ kéo theo sự phát triển cả nền kinh tế sáu nước . Thành tích kinh tế là to lớn song còn một kết quả quan trọng khác mà cộng đồng than thép Châu Âu mang lại đó là tác động tâm lý đối cới người Tây Âu . Lần đầu tiên họ thấy rằng không cần chiến tranh mà vẫn có thể thống nhất được Châu Âu và thống nhất theo chiều hướng Siêu quốc gia .
    Tại cuộc họp các ngoại trưởng của các quốc gia Tây Âu ở Messine năm 1955 đã đưa ra đề án mở rộng liên kết của các quốc gia Tây Âu song các lĩnh vực khác và cử ngài Paul Henry Spack – ngoại trưởng Italia làm chủ đề án . Đến 1956 họ đã nhất trí thành lập cộng đồng kinh tế Châu Âu ( Eurpean Economic Community – EEC ) và cộng đồng năng lượng nguyên tử Châu Âu . Ngày 25/ 7/ 1957 hiệp ược về việc thành lập 2 tổ vhức này đã được thông qua và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1/ 1/ 1958 . Mỗi tổ chức có một chức năng riêng : EEC có nhiệm vụ chung liên quan đến những vấn đề kinh tế với việc tạo lập một thị trường chung , trong đó không còn sự ngăn cản vận động của hàng hoá , tư bản , sức lao động giữa các nước Tây Âu với nhau , cộng đồng năng lượng nguyên tử Châu Âu quan tâm đến việc nghiên cứu phổ biến kiến thức , bảo đảm nguồn cung cấp thường xuyên các nguyên liệu hạt nhân thúc đẩy đầu tư lập các cơ sở sản xuất năng lượng hạt nhân chung lập thị trường nguyên tử chung giữa các nước .
    Bước vào đầu thập kỷ 90 , sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu đã làm thay đổi cục diện thế giới từ hai cực trở thành đa cực . Trong trật tự mới , các thế lực đều đang dốc sức chuẩn bị lực lượng để chiếm vị trí tối ưu cho mình trong tương lai . Mặc dù đến thời điểm này cộng đồng Châu Âu đã đạt được những thành tựu nhất định nhưng nói chung về kinh tế , chính trị lẫn quân sự vẫn còn thua kém Mỹ và Nhật Bản . Do vậy trong cuộc cạnh tranh quyết liệt trước mắt các nước Tây Âu vẫn sẽ phải thống nhất lại , đẩy manh công cuộc xây dựng cộng đồng tạo ra sức mạnh tập thể để đối phó với hai đối thủ lớn của mình . ĐIều này được thể hiện rất rõ tại Hội nghị thượng đỉnh các quốc gia Tây Âu ở Maastricht – Hà Lan tháng 11 năm 1991 . Tại Hội nghị này các quốc gia thành viên đã thống nhất : Thứ nhất tiếp tục mở rộng liên kết bằng cắch kết nạp thêm các thành viên mới , thứ hai tạo lập đồng tiền chung Châu Âu làm cho Châu Âu thay đổi một cách căn bản vào năm 2000 . Thứ ba , tiến tới thống nhất mặt chính trị , xây dựng một chính sách quốc phòng an ninh chung . Năm 1993 những hiệp ước trên bắt đầu có hiệu lực và EU cũng chính thức đổi thành liên minh Châu Âu ( European Union – EU ) . Đồng thời , EU tiếp tục mở cửa lần thứ ba đến năm 1995 ba nước ở Tây Bắc Âu gồm : Áo, Phần Lan , Thuỵ Điển đã trở thành thành viên chính thức của EU .
    Như vậy , từ sáu nước thành viên đến nay EU đã mở rộng ra 15 nước và xu thế sẽ tiến tới 21 nước vào đầu thế kỷ 20 liên kết được mở rộng trên rất nhiều lĩnh vực kinh tế , chính trị ,khoa học kỹ thuật , văn hoá , giáo dục .
    Mục đích của liên minh Châu Âu là nhằm thiết lập và hoàn thiện thị trường nội bộ thống nhất thông qua việc phát hành một đồng tiền thống nhất xoá bỏ hàng rào thuế quan giữa các nước thành viên xây dựng một hàng rào thuế quan thống nhất đối với hàng hoá nhập từ ngoài vào ,xoá bỏ những hạn chế đối với việc tự do di chuyển vốn sức lao động hàng hoá dịch vụ nhằm tăng cường hợp tác , liên kết giữa các quốc gia thành viên xây dựng Châu Âu thành một cực mạnh trong nền kinh tế thế giới . Để đạt được mục tiêu này , EU có một hệ thống thể chế để hoạch định , đIều hành và giám sát. Hệ thống này bao gồm năm cơ quan chính uỷ ban Châu Âu , Hội đồng Châu Âu , Quốc hội Châu Âu , Toà án Châu Âu và toà kiểm toàn cùng với các bộ phận hỗ trợ cho các cơ quan trên như uỷ ban kinh tế và xã hội , uỷ ban khu vực .
    Vậy , thực chất của liên kết kinh tế EU là tạo lập một thị trường thống nhất với việc phát hành một đồng tiền thống nhất là quá trình quốc tế hoá không chỉ lực lượng sản xuất mà cả quan hệ sản xuất .

    1.2. Chiến lược của liên minh Châu Âu đối với Châu Á .
     
Đang tải...