Tiểu Luận Phân tích chế định Chủ tịch nước theo pháp luật hiện hành 9đ

Thảo luận trong 'Hành Chính' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Định dạng file word

    A. MỞ ĐẦU:
    Chế định nguyên thủ quốc gia là một chế định quan trọng trong thể chế chính trị. Nhưng mỗi nước nguyên thủ quốc gia có tên gọi (vua, Hoàng đế, Tổng thống, Đoàn Chủ tịch hội đồng liên bang, Hội đồng Nhà nước, Chủ tịch nước), vị trí, chức năng khác nhau tuỳ thuộc vào thể chế chính trị và cách thức tổ chức nhà nước. Nhưng có một điểm chung là đều là người đứng đầu Nhà nước, đại diện cho Nhà nước về đối nội và đối ngoại. Ở nước ta, nguyên thủ quốc gia tồn tại dưới hình thức Chủ tịch nước theo Hiến pháp 1946, 1959, 1992, riêng Hiến pháp năm 1980 Chủ tịch nước tồn tại dưới hình thức là Hội đồng Nhà nước, là một chế định nguyên thủ quốc gia tập thể. Vị trí, tính chất, chức năng quyền hạn và mối quan hệ của thiết chế này đối với các cơ quan khác cũng khác nhau theo từng giai đoạn phát triển của tổ chức nhà nước. Trong từng hiến pháp có sự kế thừa và phát triển những nguyên tắc căn bản của tổ chức bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa nói chung và chế định nguyên thủ quốc gia nói riêng. Ở đây ta đi vào tìm hiểu, phân tích chế định Chủ tịch nước theo pháp luật hiện hành.

    B. NỘI DUNG:
    Chế định Chủ tịch nước theo HP1992 và Hiến pháp 1992 sửa đổi, bổ sung theo nghị quyết số 51/2001/QH10.
    Chế định Hội đồng Nhà nước (nguyên thủ quốc gia tập thể) ngày càng bộ lộ rõ những hạn chế trong quá trình hoạt động. Bên cạnh đó, trên thế giới diễn ra rất nhiều biến động lớn, mà tiêu biểu là hệ thống Xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu tan rã. Đất nước ta bước vào thời kỉ khủng hoảng trầm trọng bởi cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp và phổ biến quan điểm giáo điều, giản đơn về CNXH. Một yêu cầu bức thiết được đặt ra, đó là phải đổi mới, đổi mới trong bộ máy Nhà nước và trong đời sống xã hội. Hiến pháp năm 1980 đã tỏ ra không còn phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh mới của đất nước. Ngày 15 tháng 4 năm 1992 tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa VIII đã thông qua Hiến pháp mới thay thế Hiến pháp 1980, đó là Hiến pháp năm 1992. Tổ chức bộ máy Nhà nước có nhiều thay đổi căn bản so với bộ máy Nhà nước theo quy định của Hiến pháp năm 1980, trong đó có chế định Chủ tịch nước.
    Thiết chế nguyên thủ quốc gia được tổ chức khác nhau qua các Hiến pháp. Ở Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959 là Chủ tịch nước, đến Hiến pháp năm 1980 là Hội đồng Nhà nước và tại Hiến pháp năm 1992, thiết chế Chủ tịch nước được xây dựng lại. Mô hình lần này vừa tiếp thu những ưu điểm của mô hình Chủ tịch nước của Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959, vừa giữ được sự gắn bó giữa Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước trong việc thực hiện các chức năng nguyên thủ quốc gia trong thể chế Hội đồng Nhà nước. Đồng thời cũng có thêm những đặc điểm mới.
    1. Vị trí, tính chất và trật tự hình thành
    Về vị trí, tính chất, "Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại" (Điều 101 Hiến pháp năm 1992). Như vậy, cũng như các Hiến pháp năm 1959 và năm 1980, Chủ tịch nước chỉ đóng vai trò nguyên thủ quốc gia, người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước ta về đối nội và đối ngoại, chứ không đứng đầu Chính phủ như chế định Chủ tịch nước trong Hiến pháp năm 1946.
    Về trật tự hình thành, "Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội. Chủ tịch nước chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội". Nhiệm kỳ của Chủ tịch nước theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Chủ tịch nước tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khoá mới bầu Chủ tịch nước mới" (Điều 102 Hiến pháp năm 1992). Trật tự hình thành của Chủ tịch nước nói lên mối quan hệ chặt chẽ với cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất - Quốc hội.
    2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước
    Nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước được Hiến pháp quy định ở Điều 103 (gồm 12 vấn đề), và ở một số điều khoản khác có liên quan (Như Điều 135, Điều 139). Có thể phân chia các nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước thành hai nhóm:
    ã Nhóm các nhiệm vụ, quyền hạn liên quan đến chức năng đại diện, thay mặt nước về đối nội và đối ngoại.
    Chủ tịch nước ở nước ta cũng như hầu hết các nguyên thủ quốc gia đều được quy định quyền này. Cụ thể là:
    + Chủ tịch nước "Cử, triệu hồi đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam; tiếp nhận đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ngoài; tiến hành đàm phán, ký kết điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam với người đứng đầu Nhà nước khác; quyết định phê chuẩn hoặc tham gia điều ước quốc tế, trừ trường hợp cần trình Quốc hội quyết định" (Điểm 10 Điều 103 Hiến pháp năm 1992).
    Chủ tịch nước quyết định việc kí kết điều ước với danh nghĩa Nhà nước và những điều ước quốc tế có điều khoản trái với Luật hoặc Pháp lệnh. Chủ tịch nước trực tiếp đàm phán, kí kết hoặc uỷ quyền trưởng đoàn đàm phán kí kết. Chủ tịch nước phê chuẩn các điều ước thuộc quyền quyết định của Chủ tịch nước về điều ước Quốc tế có điều khoản quy định việc phê chuẩn. Việc xin phê chuẩn điều ước Quốc tế do cơ quan đề xuất việc kí kết phối hợp với Bộ ngoại giao đề nghị Chính phủ trình Chủ tịch nước, Chủ tịch nước xét và tiến hành phê chuẩn hoặc trình Quốc hội phê chuẩn.
    Và ở Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001, quy định này được bổ sung thêm đó là: Chủ tịch nước trình Quốc hội phê chuẩn các điều ước Quốc tế đã trực tiếp kí.
    + Chủ tịch nước "Quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam, cho thôi quốc tịch Việt Nam hoặc tước quốc tịch Việt Nam" (Điểm 11 Điều 103 Hiến pháp năm 1992).
    + Chủ tịch nước "Thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân và giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh" (Điểm 2 Điều 103 Hiến pháp năm 1992). Ở đây có điểm khác Hiến pháp năm 1946. Điều 49 Hiến pháp năm 1946 quy định Chủ tịch nước "giữ quyền tổng chỉ huy quân đội toàn quốc ." ; từ "thống lĩnh" đã được dùng trong các Hiến pháp năm 1959 và 1980; "thống lĩnh" khác "tổng chỉ huy" ở chỗ "thống lĩnh" không phải là trực tiếp chỉ huy mà là phụ trách chung. Hội đồng Quốc phòng giúp Chủ tịch nước trong việc thống lĩnh. Chủ tịch nước thành lập Hội đồng Quốc phòng và trình Quốc hội phê chuẩn.
    + Chủ tịch nước "Quyết định phong hàm, cấp sĩ quan cấp cao trong các lực lượng vũ trang nhân dân, hàm, cấp ngoại giao và những hàm cấp Nhà nước khác; quyết định tặng thưởng huân chương, huy chương và danh hiệu vinh dự Nhà nước" (Điểm 9 Điều 103 Hiến pháp năm 1992).
    + Chủ tịch nước "Thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân và giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh" (Điểm 2 Điều 103 Hiến pháp năm 1992). Ở đây có điểm khác Hiến pháp năm 1946. Điều 49 Hiến pháp năm 1946 quy định Chủ tịch
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...