MỞ ĐẦU dân tộc Việt nam có truyền thống lâu đời về đoàn kết và bình đẳng dân tộc tinh thần bình đẳng, tương trợ đó được thể hiện qua nhiều hình thức khác nhau trong lịch sử, tử truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu cơ cho đến những sự kiện lich sử được ghi lại. chính tinh thần đoàn kết đó là sức mạnh không có gì sánh được dúp đân tộc ta chiến đấu và chiến thắng đánh bại các hình thức phân biệt chủng tộc tồn tại trong lịch sử đó là chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa đế quốc hơn ai hết dân tộc Việt Nam nâng niu và quý trọng sự bình đẳng giữa các dân tộc. Bình đẳng dân tộc là quyền của mọi dân tộc không phân biệt đa số hay thiểu số trình độ văn hoá cao hay thấp, không phân biệt chủng tộc màu da quyền bình đẳng giữa các dân tộc bao gồm tất cả các lĩnh vực trong kinh tê, chính trị,văn hoá xã hội. đâu cũng là cơ sở pháp lý chung để giải quyết các quan hệ dân tộc trên thế giới trong khu vực hay trong một quốc gia. Bởi điều đó đã được ghi nhân trong công pháp quốc tế và pháp luật của mỗi quốc gia.Bình đăng dân tộc cũng là kết quả đấu tranh của nhân dân lao đông các nước. Ngay từ khi nhà nước Việt Nam non trẻ ra đời sau thắng lợi của cách mạng tháng tám Hiến pháp năm 1946 đã khẳng định nguyên tắc bình đẳng “ tất cả các công dân Việt nam phưong diên: chính trị, kinh tế, văn hoá ” (điều 6) còn vấn đề hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số cũng đã được xác định tại hiến pháp “ ngoài sự bình đẳng về quyền lợi, nhưng quốc dân thiểu số được dúp đỡ về mọi phương diện để nhanh chóng tến kịp trình độ chung (điều 8). Tại điều 5 hiếp pháp năm 1992 và sứa đổi bổ sung năm 2001 quy định “nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc nghiêm cấm mọi hành vi kì thị chia rẽ dân tộc”. Quy định này của hiến pháp đã đặt nền móng pháp lí cho việc xây dựng và thực thiện nguyên tắc bình đẳng giữa các dân tộc trong quản lí hành chính nhà nước. Các nguyên tắc về quy định quyền bình đẳng không nhũng được quy định trong hiến phạp mà còn được cụ thể trong luật và các văn bản dưới luật khác có liên quan và được triển khai thực hiện trong thực tiến. Trong quản lí hành chính nhà nước nguyên tắc bình đẳng giữa các dân tộc được biểu hiện cụ thể như sau: Thứ nhất là trong công tác lãnh đạo và sử dụng cán bộ Nhà nước có chính sách ưu tiên con em các dân tộc ít người, dúp đỡ về mặt vật chất động viên về mặt tinh thầnđể họ tích cực học tập nâng cao trình độ về mọi mặt, nhà nước bao giờ cũng dành tỉ lệ nhất định số cán bộ công chức là người dân tộc trong biên chế của các cơ quan nhà nước, đặc biệt là cơ quan nhà nước đóng trên địa bàn mièn núi, biên giới hải đảo, nơi có nhiều đồng bào dân tộc ít người sinh sống và có những chính sách khuyến kích những người đến phục vụ tại những khu vực này. Chính sách ưu tiên trong công tác cán bộ ở khu vực miền núi, biên giới và hải đảo còn thể hiện ở việc quy định chế độ đãi ngộ về vật chất cũng như tinh thần đối với những cán bộ công chức làm việc ở những khu vực này, với những chính sách đó đã tạo đièu kiên để cán bộ công chức hoàn thành tốt nhiêm vụ của minh góp phần đưa miền núi tiến kịp với miền xuôi.