Tiểu Luận Phân phối thu nhập cá nhân trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở VN

Thảo luận trong 'Kinh Tế Chính Trị' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    LỜI MỞ ĐẦU​ ​ Từ năm 1986 đến nay nước ta đang thực hiện chính sách đổi mới để hội nhập quốc tế. Để trở thành một nước phát triển như mong đợi không những chúng ta phải phát triển một nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, chúng ta còn phải phát triển kinh tế mạnh mẽ, điều đó chỉ có được khi phân phối thu nhập ở nước ta đồng đều. Việt Nam là một nước đang phát triển, thu nhập của người dân chưa cao, không những thế lại có sự chênh lệch giữa thành thị và nông thôn, giữa miền núi và đồng bằng, xuất hiện những người giàu và những người nghèo, gây ra tình hình trong nước luôn có những bất đồng, phức tạp. Hơn nữa phân phối thu nhập lại là một khâu không kém phần quan trọng trong quá trình tái sản xuất xã hội, nó là mục tiêu của quá trình sản xuất. Phân phối thu nhập có ảnh hưởng trở lại đối với sản xuất, có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của sản xuất.
    Phân phối đúng đắn thu nhập cá nhân của xã hội, các thành viên xã hội nước ta trong thời kì quá độ lên Chủ Nghĩa Xã Hội là một vấn đề vô cùng hệ trọng, tạo ra động lực góp phần tích cực vào sản xuất tạo điều kiện cho sản xuất xã hội. Đồng thời góp phần tích cực làm ổn định tình hình kinh tế- xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Như vậy vấn đề cấp bách hiện nay đặt ra là phân phối thu nhập đồng đều, tuy nhiên hiện nay trong thực tế gặp phải không ít những khó khăn.
    Với vai trò quan trọng như vậy của phân phối thu nhập đối với nước ta hiện nay, em xin chọn đề tài là: "Phõn phối thu nhập cá nhân trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xó hội ở Việt Nam”. Do thời gian và trình độ có hạn nên chất lượng đề án chưa cao, em rất mong được sự chỉ dẫn của thầy. Em xin chân thành cảm ơn.


    B - NỘI DUNG ĐỀ ÁN.​ ​ I - CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ PHÂN PHỐI THU NHẬP CÁ NHÂN TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
    1.1 - Tính tất yếu khách quan của nhiều hình thức phân phối thu nhập cá nhân trong thời kì quá độ lên Chủ Nghĩa Xã Hội ở Việt Nam.
    1.1.1 - Khái niệm quan hệ phân phối và các khái niệm có liên quan.
    Quan hệ phân phối, các hình thức thu nhập là hình thức thực hiện về mặt kinh tế của quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất.
    Phân phối thu nhập có ảnh hưởng lớn đến sản xuất. C.Mac đã từng nói tới vai trò phân phối trực tiếp các yếu tố cho quá trình sản xuất. Sự phân phối các nguồn lực thông suất sẽ đảm bảo quá trình tái sản xuất được tiến hành liên tục. Phân phối thu nhập quyết định sự tác động của chủ thể yếu tố sản xuất thông qua phân phối thu nhập các chủ thể yếu tố sản xuất có được để mua hàng tiêu ding và dịch vụ trên thị trường. Công cụ thực hiện phân phối thu nhập trong nền kinh tế thi trường là cung và cầu và giá cả trên thị trường. Phân phối thu nhập đảm bảo thực hiện sử dụng các quyền sở hữu về kinh tế các chủ thể yếu tố sản xuất góp phần vào việc tăng cường sở hữu.
    Khác với các nền kinh tế trước đó là kiểu tập trung, quan liêu bao cấp, nền kinh tế thị trường định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa ở Việt Nam có những đặc trưng, và bản chất riêng.
    Về mục tiêu phát triển kinh tế thị trường, mục tiêu hàng đầu của phát triển kinh tế thi trường ở nước ta đó là giải phóng sức sản xuất, động viên mọi nguồn lực trong nước và ngoài nước để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dung cơ sở vật chất kĩ thuật của Chủ Nghĩa Xã Hội, nâng cao hiệu quả kinh tế-xã hội.
    Nền kinh tế thị trường gồm nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Nền kinh tế có các thành phần là kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, trong đó kinh tế nhà nước gĩư vai trò chủ đạo.
    Trong nền kinh tế thị trường định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa, thực hiện nhiều hình thức phân phối thu nhập, trong đó lấy phân phối thu nhập theo lao động là chủ yếu. Mỗi chế độ xã hội có chế độ phân phối tương ứng với nó. Chế độ phân phối do quan hệ sản xuất thống trị, trước hết là quan hệ sở hữu quyết định.
    Cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế thị trường có sự định hướng của nhà nước Xã Hội Chủ Nghĩa. Sự quản lý đó nhằm mục đích sửa chữa một mức độ nào đó ” những thất bại của thị trường”. Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa theo nguyên tắc kêt hợp kế hoạch với thị trường.
    Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã khẳng định “ thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động là chủ yếu, đồng thời phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác vào kết quả sản xuất – kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội”. Trong nền kinh tế thị trường định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa ở Việt Nam có những hình thức phân phối thu nhập sau:
    Trong thành phần kinh tế hợp tác: hợp tác xã là hình thức liên kết tự nguyện của những người lao động nhằm kết hợp sức mạnh của từng thanh viên với sức mạnh của tập thể để giải quyết có hiệu quả hơn những vấn đề của sản xuất kinh doanh và đời sống. Phân phối thu nhập trong hợp tác xã được thực hiện trên cơ sở kết quả lao động, đồng thời theo cổ phần của mỗi thành viên đã đóng góp vào hợp tác xã.
    Trong thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ. ở đây, thu nhập cá nhân là phần còn lại của tổng giá trị sản phẩm đã thực hiện sau khi đã khấu trừ giá trị cần thiết để tái sản xuất giản đơn và sau khi đã làm nghĩa vụ nộp thuế cho nhà nước theo luật pháp. Đặc điểm của hình thức phân phối thu nhập này là phụ thuộc vào sở hữu tư liệu sản xuất, vốn đầu tư và tài năng sản xuất kinh doanh của chính những người lao động.
    Trong thành phần kinh tế tư bản nhà nước. Kinh tế tư bản nhà nước bao gồm các hình thức hợp tác liên doanh giữa kinh tế nhà nước với tư nhân trong nước và ngoài nước. Và việc phân phối thu nhập ở đây dựa trên cơ sở vốn cổ phần dưới hình thức lợi tức cổ phần. Đó là phần còn lại của bộ phận giá trị mới (v+m) sau khi đã khấu trừ khoản trả công cho công nhân và những người quản lý, khoản thuế nộp cho nhà nước.
    Trong thành phần kinh tế tư nhân tư bản chủ nghĩa. Việc phân phối được tiến hành theo số lượng tư bản và giá cả sức lao động. Kinh tế tư nhân tư bản chủ nghĩa dựa trên cơ sở chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và thuê mướn công nhân, sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu và chi phối của các nhà tư bản.
    Ngoài ra còn phân phối thông qua phúc lợi tập thể, xã hội. Loại phân phối này nhằm nâng cao mức sống vật chất và tinh thần của nhân dân, dặc biệt là của tầng lớp nhân dân lao động, huy động tính tích cực lao động của mọi thành viên trong xã hội, nâng cao mức sống của toàn dân, đặc biệt là của những người có thu nhập thấp, và nó còn giáo dục ý thức cộng đồng.
    1.1.2 - Sự cần thiết khách quan tồn tại nhiều hình thức phân phối thu nhập.
    Xuất phát từ yêu cầu của các quy luật kinh tế khách quan và từ đặc điểm kinh tế – xã hội nước ta, trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta phải thực hiện nhiều hình thức phân phối thu nhập cá nhân. Đó là một tất yếu khách quan, vì:
    1.1.2.1- Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế nhiều thành phần, có nhiều chế độ sở hữu khác nhau.
    Sự phân phối luôn luôn là kết quả tất nhiên của những quan hệ sản xuất và trao đổi trong một xã hội nhất định. Vì vậy, mỗi phương thức sản xuất có quy luật phân phối thu nhập cá nhân thích ứng với nó. Chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất quyết định mối quan hệ giữa các tập đoàn xã hội trong sản xuất cũng như trong phân phối.
    Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế nhiêu thành phần. Mỗi thành phần kinh tế là một kiểu quan hệ kinh tế dựa trên cơ sở một hình thức sở hữu nhất định. Tương ứng với mỗi thành phần kinh tế, mỗi hình thức sở hữu là một hình thức phân phối thu nhập cá nhân nhất định. Mặc dù các thành phần kinh tế nước ta không tồn tại biệt lập mà đan xen vào nhau và hợp thành một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất, song chừng nào còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác nhau thì sự phân phối thu nhập cá nhân chưa thể được thực hiện theo một hình thức thống nhất mà phải được thực hiện theo nhiều hình thức. Chỉ có như vậy mới giải phóng được mọi năng lực sản xuất, khai thác triệt để mọi tiềm năng kinh tế của đất nước nhằm phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất – tiền đề tất yếu của sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
    1.1.2.2- Trong nền kinh tế nước ta còn tồn tại nhiều phương thức kinh doanh khác nhau.
    Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Mỗi thành phần kinh tế có phương thức sản xuất kinh doanh riêng. Ngay trong thành phần kinh tế thuộc chế độ công hữu cũng có những phương thức kinh doanh khác nhau, do đó, phương thức hình thành thu nhập ở đây cũng khác nhau.
    1.1.2.3- Cơ chế thị trường cũng đòi hỏi phải thực hiện nhiều hình thức phân phối.
    Trong nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường sự điều phối, sắp xếp hợp lý các yếu tố của nền sản xuất xã hội phải do cơ chế thị trường thực hiện, do đó các loại yếu tố của sản xuất tất nhiên phải tham gia vào quá trình phân phối, như thông qua thị trường mà tập trung vốn . Điều đó cũng góp phần vào việc hình thành phương thức phân phối thu nhập cá nhân theo nhiều hình thức.
    Quan điểm về phân phối thu nhập cá nhân theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
    Nứơc ta đang quá độ lên Chủ Nghĩa Xã Hội, do đó, phân phối thu nhập cá nhân cũng là quá trình từng bước tiến tới thực hiện sự phân phối theo số lượng và chất lượng lao động. Đó là sự phân phối thích ứng với một xã hội mà trong đó không còn tình trạng người bóc lột người, người lao động hoần toàn làm chủ về các mặt kinh tế, chính trị, văn hoá. Sự phân phối thu nhập cá nhân theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa là sự phấn đấu từng bước thực hiện mục tiêu Xã Hội Chủ Nghĩa trong phân phối.
    Do nền sản xuất của nước ta còn thấp nên không thể thực hiện đầy đủ ngay lập tức phân phối này. Chúng ta còn phải thực hiện nhiều hình thức phân phối, bên cạnh hình thức phân phối theo lao động còn hình thức phân phối dựa trên mức đóng góp của các nguồn lực khác vào kêt quả sản xuất – kinh doanh. Tuy nhiên, phân phối theo kết quả lao động phải trở thành hình thức phân phối chủ yếu.
    Chúng ta phải thừa nhận rằng, sự tồn tại tương đối lâu dài của các hình thức thuê mướn lao động là một tất yếu khách quan trong thời kì quá độ ở nước ta, do đó phân phối thu nhập cá nhân theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa đòi hỏi chính sách xã hội của Nhà nước phải điều tiết sự phân phối thu nhập cá nhân sao cho mỗi bước tiến phát triển kinh tế là một bước tiến trong công bằng xã hội. Thừa nhân sự chênh lệch trong thu nhập cá nhân giữa các thành viên xã hội là một tất yếu khách quan song không để diễn ra sự chênh lệch quá đáng về thu nhập mức sống của các tầng lớp dân cư, về trình độ phất triển giữa các vùng, từng bước thực hiện sự công bằng xã hội, thu hẹp, tiến tới xoá bỏ sự chênh lệch về mức sống giữa các tầng lớp dân cư, giữa thành thị và nông thôn.
    1.3 - Các yếu tố ảnh hưởng đến phân phối thu nhập.
    Tổng thu nhập quốc dân tính theo đầu người, tổng thu nhập quốc dân càng lớn thì thu nhập đầu người càng lớn. Hiện nay, nước ta là một trong những nước có thu nhập quốc dân thấp nhất trên thế giới. Để phân phối thu nhập hay đời sống người dân nâng cao thi chúng ta phảI có những chính sách phát triển kinh tế mạnh mẽ hơn nữa.
    Phần của lao động trong nông nghiệp. Hiện nay ở nước ta cũng như trên thế giới đang có xu hướng chuyển dịch từ nông nghiệp, công nghiệp sang dịch vụ. Nếu như trước đây người dân nước ta chủ yếu làm nghề nông nghiệp, đời sống còn nghèo thì hiện nay Đảng và Chính phủ đang có chính sách giảm lao động trong nông nghiệp chuyển hướng sang công nghiệp và dịch vụ, khuyến khích xây dựng các nhà máy mới, khôI phục nghề truyền thống của từng địa phương, thu hút lao động giải quyết tình hình thất nghiệp, đồng thời giảm việc dân cư kéo nhau về thành thị kiếm việc làm.
    Đồng thời với hai chính sách đó là chúng ta phảI thực hiện tốt kế hoạch hoá gia đình chỉ có giảm dân số nâng cao sự hiểu biết của người dân mới có thể nâng cao đời sống người dân đồng thời nâng cao thu nhập. Hiện nay chúng ta đang thực hiện chính sách mỗi gia đình chỉ nên có một hoặc hai con chỉ có như vậy mới chăm sóc tốt được. Khi dân số nước ta giảm đI, nền kinh tế phát triển hơn thì thu nhập của mỗi người sẽ được nâng nên.
    1.4 - Mối quan hệ phân phối thu nhập.
    1.4.1 - Bản chất của mối quan hệ.
    Xét cho đến cùng thì các hình thức phân phối thu nhập cùng quan hệ của chúng được xây dựng để thực hiện phân phối theo nhu cầu. Đây là hình thức
    phân phối cao nhất và nó sẽ xuất hiện ở chủ nghĩa cộng sản sau này. Theo hinh thức phân phối này thì tuỳ thuộc vào nhu cầu của mỗi cá nhân để phân phối, không tuỳ thuộc vào sự đóng góp của cá nhân như các hình thức phân phối khác.
    Mặt khác xây dựng mối quan hệ này còn nhằm giải quyết mục tiêu cơ bản xây dựng Xã Hội Chủ Nghĩa, thực hiện dân giàu nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Hướng các lợi ích vào quỹ đạo chung và sự kết hợp của chúng nhằm tạo ra động lực cho sự phát triển. Một khi chủ thể tham gia vào các hoạt động kinh tế đều nhằm đạt tới những lợi ích kinh tế tương xứng với kết quả sản xuất- mới đảm bảo tính ổn định và phát triển của các chủ thể lợi ích, ngược lại sẽ làm cho mối quan hệ đó xuống cấp.


    1.4.2 – Mối quan hệ giữa các hình thức phân phối.
    Do nước ta có nhiều hình thức sở hữu khác nhau nên có nhiều hình thức phân phối khác nhau. Trong đó phân phối theo lao động chiếm chủ yếu. Phân phối theo lao động là phân phối trong các đơn vị kinh tế dựa trên cơ sở công hữu công cộng về tư liệu sản xuất. Trong thời kì quá độ lên Chủ Nghĩa Xã Hội và ngay cả trong giai đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản, tức là Chủ Nghĩa Xã Hội cũng chưa thể thực hiện phân phối theo nhu cầu và cũng không thể phân phối bình quân mà chỉ có thể phân phối theo lao động. Vì lực lượng sản xuất phát triển chưa cao, chưa đến mức cố đủ sản phẩm để phân phối theo nhu cầu. Đồng thời có sự khác biệt về tính chất và trình độ lao động dẫn tới việc mỗi người có sự cống hiến khác nhau, cũng như lao động chưa trở thành một nhu cầu của cuộc sống.
    Tuy vậy phân phối theo lao động cũng có những hạn chế không thể tránh khỏi đồng thời ở nước ta đang tồn tại nhiều thành phần kinh tế với sự đa dạng các hình thức sở hữu và các hình thức tổ chức sản xuất – kinh doanh, nên trong nước còn nhiều hình thức phân phối khác trong đó phân phối thông qua phúc lợi, tập thể, phúc lợi xã hội có vai trò quan trọng. Hình thức phân phối này nhằm nâng cao mức sống về vật chất và văn hoá của nhân dân, đặc biệt là của tầng lớp nhân dân lao động, phát huy tính tích cực lao động cộng đồng của mọi thành viên trong xã hội, giáo dục ý thức cộng đồng, xây dựng chế độ xã hội mới. Song hình thức phân phối này chỉ có ý nghĩa khi được sử dụng một cách hợp lý phù hợp với yêu cầu và các điều kiện khách quan.
    Mặc dù có nhiều hình thức phân phối cùng tồn tại, nhưng các hình thức phân phối này có mối quan hệ chặt chẽ do nền kinh tế nước ta có nhiều thành phần, các thành phần kinh tế tồn tại độc lập với nhau, hơn nữa thành phần kinh tế sinh ra hình thức phân phối. Trong các đơn vị kinh tế tập thể bậc thấp có sự kết hợp phân phối theo vốn và phân phối theo lao động. Trong kinh tế tư bản tư nhân và tư bản nhà nước, việc phân phối ở đây dựa trên cơ sở sở hữu vốn cổ phần, sở hữu sức lao động
    Về mặt phân phối cần thực hiện nhiều hình thức nhưng lấy phân phối theo lao động và hiệu quả lao động là chủ yếu. Đồng thời thừa nhận sự phân phối theo vốn góp vào việc sản xuất kinh doanh. Các nhà quản lý doanh nghiệp cũng như người trực tiếp sản xuất đều được hưởng theo kết quả lao động của mình, kết quả lao động khác nhau thì sự hưởng thụ khác nhau và đương nhiên, sự hưởng thụ tương ứng với kết quả lao động của mỗi người. Đảng và Nhà nước tổ chức những phong trào xã hội rộng rãi của các đoàn thể xã hội cũng như tự nguyện của cộng đồng như xoá đói giảm nghèo, nhân đạo, dưới hình thức tự nguyện và giúp đỡ lẫn nhau.
    II – THỰC TRẠNG VÀ VIỆC HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN CỦA QUAN HỆ PHÂN PHỐI THU NHẬP CÁ NHÂN TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM.
    2.1 – Khái quát quá trình phát triển của quan hệ phân phối thu nhập.
    Trong nền kinh tế Tư Bản Chủ Nghĩa: Chỉ có chế độ tư hữu và chưa có hình thức phân phối theo lao động. Vì dựa trên chế độ tư hữu nên chúng không thể thoát khỏi tính tự phát chạy theo lợi nhuận đơn thuần, nảy sinh những hiện tượng tiêu cực làm tổn hại đến lợi ích chung của toàn xã hội. Trong thời kỳ này kết cấu kinh tế còn nhiều thành phần, chúng ta chưa có điều kiện để thực hiện hình thức phân phối theo lao động trên quy mô toàn xã hội mà chỉ có thể thực hiện trong một bộ phận của nền kinh tế, coi hình thức phân phối đó là hình thức phân phối chủ yếu mà thôi.
    Từ Chủ Nghĩa Tư Bản cho đến nay đã xuất hiện nhiều hình thức phân phối mới, đặc biệt là sự phát triển của phân phối theo lao động. Hình thức phân phối này là đặc trưng bản chất của kinh tế thị trường định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa, nó là hình thức thực hiện về mặt kinh tế của chế độ công hữu. Vì thế mà phân phối theo lao động được xác định là hình thức phân phối chủ yếu trong thời kì quá độ lên Chủ Nghĩa Xã Hội.


    2.2 – Những đánh giá về việc phân phối thu nhập và mối quan hệ giữa các hình thức phân phối.
    ở nước ta trong những năm qua có nhiều cố gắng để giải quyết vấn đề phân phối thu nhập, đặc biệt từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường đến nay. Nếu như ở Chủ Nghĩa Tư Bản có sự phân phối thu nhập đồng đều giữa các cá nhân, làm giảm tính sáng tạo, thì hiện nay chúng ta phân phối theo lao động là chủ yếu, ai làm nhiều hưởng nhiều, ai làm ít thì hưởng ít, ai không làm thì không hưởng, kích thích sáng tạo trong sản xuất.
    Hiện nay trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường ở nước ta bên cạnh một bộ phận nhân dân giàu lên chính đáng, đã và đang xuất hiện sự phân hoá giàu nghèo giữa các vùng , giữa thành thị và nông thôn, giữa các tâng lớp dân cư. Tuy vậy cho đến nay vẫn chưa có quan điểm đúng đắn về tầm quan trọng của các hình thức phân phối ngoài hình thức phân phối theo lao động. Điều đó ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng sản xuất. Ví dụ trong hình thức sản xuất kinh doanh cá thể, mỗi hộ nông dân được coi là một đơn vị sản xuất cơ bản trong nông nghiệp, mỗi hộ tiến hành sản xuất trên diện tích đất đai thuộc quyền sở hữu toàn dân. Nhưng để nâng cao hiệu quả kinh tế – xã hội của việc sử dụng đất đai, cần phải thực hiện chế độ trách nhiệm kinh tế, phát huy tính chủ động sáng tạo của người lao động. Vì vậy, trong chế độ “khoán hộ” mỗi hộ tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất, kinh doanh của mình trên diện tích được giao phó. Do đó thu nhập của mỗi hộ tuỳ thuộc vào tinh thần lao động, vào mức huy động vốn, vào hình thức canh tác, kinh doanh. Thu nhập của mỗi hộ là phần còn lại sau khi đã trừ các khoản nghĩa vụ cần thiết. Do kết hợp được chặt chẽ giữa hiệu quả sản xuất với sự cống hiến lao động của những người lao động, cho nên hình thức phân phối này khắc phục được chủ nghĩa bình quân, kích thích tính sáng tạo của người lao động. Như vậy trong trường hợp này không nên sử dụng hình thức phân phối theo lao động mà nên sử dụng hình thức phân phối theo hình thức của nền kinh tế cá thể tiểu chủ
    Một thưc trạng nữa ở nước ta hiện nay nữa đó là sự tồn tại biệt lập của các hình thức phân phối thu nhập. Trong nền sản xuất chủ yếu là phân phối thu nhập theo lao động, còn trong lĩnh vực xã hội hình thức phân phối thu nhập chủ yếu đó là hình thức phân phối thông qua phúc lợi tập thể, xã hội. Tuy thế, nhưng chúng vẫn tạo thành một thể thống nhất , mỗi hình thức một lĩnh vực và chúng đều phát huy hết tác dụng của mình để thực hiện được mục đích ban đầu.
    Cùng vứi sự kích thích sản xuất, phát triển kinh tế thị trường còn là miếng đất tốt để nảy sinh và phát triển nhiều hiện tượng đó là tình trạng tham nhũng, buôn lậu Cùng với hiện tượng tiêu cực đó là tình trạng thương mại hoá tràn lan xâm nhập cả vào các lĩnh vực y tế, văn hoá, giáo dục, làm cho đời sống xã hội có những biểu hiện xuống cấp đạo lý bị sa sút, tình cảm con người bị đồng tiền chi phối, lối sống ích kỷ, thực dụng
    Tuy nhiên, cả hộ giàu và nghèo có khác nhau nhưng nhìn chung đều là những người lao động đều tạo ra thu nhập trước hết và chủ yếu bằng lao động của chính mình, ai có nhiều sức lao động hơn, có kinh nghiệm và tài năng sản xuất kinh doanh hơn thì họ sẽ giàu hơn và ngược lại sẽ nghèo hơn. Nên sự phân hoá giàu nghèo không phải là biểu hiện của sự công bằng ai làm tốt, làm nhiều, làm giỏi thì hưởng nhiều và ngược lại. Nếu nhà nước không có chính sách quản lý và những biện pháp điều tiết kịp thời, hữu hiệu thì sự phân hoá này sẽ dẫn tới phân hoá giai cấp, phân cực xã hội, một bộ phận không nhỏ của dân cư thuộc tầng lớp cơ bản trong xã hội sẽ bị bần cùng hoá. Xảy ra tình hình đó sẽ làm chệch hướng Xã Hội Chủ Nghĩa ảnh hưởng xấu tới sự ổn định và bền vững của chính trị. Rộng hơn và có ý nghĩa quan trọng hơn về mặt xã hội là phân tầng xã hội trong cơ cấu giai cấp – xã hội và ngay trong nội bộ giai cấp. Với nền kinh tế thuần nông lại mang nặng tính tự nhiên tự cung tự cấp và chậm. phát triển nên thu nhập của các tỉnh miền núi phía Bắc so với bình quân chung của cả nước cũng như một số vùng thì còn khá thấp. Năm 1994 thu nhập bình quân đầu người một tháng của các tỉnh miền núi phía Bắc mới bằng 78,7% mức bình quân chung của cả nước, năm 1995 tụt xuống còn 77,9 và năm 1996 chỉ còn 76,6% chứng tỏ thu nhập của dân những năm qua có sự phát triển tăng lên nhưng không đáng kể, khoảng cách giữa các khu vực này với khu vực khác về kinh tế – xã hội ngày càng xa không phải là thu hẹp.
    Như vậy vấn đề phân phối thu nhập còn nhiều khuyết tật làm kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế nước ta. Vấn đề đặt ra là cần làm sao để phân phối thu nhập phải dựa trên nguyên tắc của kinh tế thị trường một cách triệt để.
    III – GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐỀ RA ĐỂ PHÁT TRIỂN VÀ DẦN HOÀN THIỆN MỐI QUAN HỆ PHÂN PHỐI THU NHẬP CÁ NHÂN TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM.
    Nước ta đang quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nước kém phát triển, do đó sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập là một hiện tượng khách quan. Nhưng sự nghiệp xây dựng chủ nghiã xã hội đòi hỏi tạo ra những tiền đề, những biện pháp để từng bước xoá bỏ bất bình đẳng trong phân phối thu nhập cá nhân, thực hiện đầy đủ sự công bằng xã hội. Để đạt được mục tiêu này ta cần phải:
    3.1 - Đánh giá, đưa ra các lĩnh vực thích hợp để các hình thức phân phối thu nhập phát huy tác dụng.
    Trong lĩnh vực sản xuất như doanh nghiệp, phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập từng bước quan hệ sản xuất Xã Hội Chủ Nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu. Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Thực hiện nhiều hình thức phân phối lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu.
    Còn trong xã hội, thông qua phúc lợi xã hội nâng cao, cải thiện đời sống của những người cao tuổi, người gặp khó khăn, cải thiện đời sống của người lao động làm cho mọi người có cuộc sống tốt hơn, va không còn người nghèo trong xã hội.
    3.2 – Giải pháp trong quá trình sản xuất.
    Phương thức phân phối, ngoài tính chất của chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất còn do số lượng sản phẩm có thể phân phối quyết định. Do vây, muốn thực hiện được ngày càng đầy đủ sự công bằng xã hội trong phân phối thu nhập của mỗi cá nhân thì cần phải sản xuất ra càng nhiều sản phẩm. Thực hiện sự phân phối bình đẳng trong điều kiện của cải vật chất quá nghèo nàn chỉ là sự chia đều nghèo khổ. Để tiến lên sự bình đẳng trong phân phối thu nhập cá nhân, điều kiện tiên quyết đối với nước ta là phát huy mọi tiềm năng vật chất và tinh thần của đất nước, ra sức phát triển lực lượng sản xuất, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
    Tiếp tục hoàn thiện chính sách tiền công, tiền lương, chống chủ nghĩa bình quân. Tiền lương tối thiểu phải đáp ứng được nhu cầu thiết yếu của người lao động ( ăn, ở, mặc, nuôi dậy con cái ). Gắn chặt tiền công, tiền lương với năng suất chất lượng và hiệu quả sẽ đảm bảo quan hệ hợp lý về thu nhập cá nhân giữa các ngành nghề.
    3.3 - Điều tiết và nâng cao thu nhập trong dân.
    Sự chênh lệch về mức thu nhập của các tập thể, cá nhân trong thời kì quá độ ở nước ta là một tất yếu khách quan. Tuy vậy chúng ta cần ngăn chặn sự chênh lệch quá đáng về thu nhập, sự phân hoá xã hội thành hai cực đối lập. Đối với nước ta, việc điều tiết thu nhập cá nhân nhằm mục tiêu trợ giúp những người có thu nhập quá thấp hoặc không có thu nhập vượt qua những khó khăn nhất thời, giải quyết những vấn đề chung theo yêu cầu phát triển xã hội, thực hiện công bằng xã hội. Đồng thời, điều tiết thu nhập cá nhân phải đảm bảo duy trì được động lực phát triển kinh tế, khuyến khích mọi thành viên trong xã hội có sức lao động , có vốn và tài sản tích cực đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh hợp pháp để làm giàu chính đáng.
    Vì thu nhập cá nhân được hình thành từ nhiều hình thức phân phối, nên sự điều tiết đòi hỏi phải nắm vững tính chất và mức độ của từng loại thu nhập để vừa khuyến khích mọi người làm giàu chính đáng, vừa bảo đảm tính định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa trong phân phối. Nhà nước làm giảm thu nhập cá nhân bắng các hình thức thuế thu nhập cá nhân và hình thức tự nguyện đóng góp của cá nhân có thu nhập cao vào quỹ phúc lợi xã hội, từ thiện trong đó, thuế thu nhập cá nhân là quan trọng nhất, chủ yếu nhất đối với mọi nhà nước trong nền kinh tế thị trường, tuy thế cũng không làm triệt tiêu động lực tăng thu nhập hơn nữa của bộ phận dân cư có thu nhập cao. Bên cạnh đó nhà nước có các biện pháp làm tăng thu nhập thông qua ngân sách nhà nước, các quỹ như quỹ bảo hiểm, , các điều luật giúp cho những người có ý chí, có thể vay vốn để làm giàu.
    Ngoài ra nhà nước còn khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá đói giảm nghèo. Nhà nước điều tiết bớt thu nhập của người giàu lên nhờ lợi thế nghề nghiệp vị trí địa lý, có sự đãi ngộ thích hợp đối với những người có cống hiến cho xã hội chứ không phải cho sản xuất. Đi đôi với khuyến khích làm giàu hợp pháp phải đồng thời chủ trương mở rộng và đẩy mạnh cuộc vận động xoá đói giảm nghèo, trong đó cần tập trung xoá đói, giảm nghèo ở vùng nông thôn nhất là nông thôn miền núi, vùng các dân tộc ít người, vùng căn cứ kháng chiến cũ, giảm nghèo ở cả nông thôn và thành thị.
    3.4 – Giải pháp xây dựng, phát triển quan hệ giữa các hình thức phân phối thu nhập.
    Có chính sách khuyến khích thành lập công ty tư nhân bằng cách hỗ trợ vốn, có các chính sách ưu đãi để làm ăn dễ hơn, khi công ty gặp khó khăn có thể giúp công ty hoẵn nợ, thuế nộp cho nhà nước giảm, để thành lập các công ty có thể bằng nhiều cách như góp vốn người nào góp nhiều thì có cổ phần cao hơn, có quyền hạn cao hơn, và có thu nhập cao hơn. Tuy nhiên trong quá trình sản xuất nên phân phối thu nhập theo lao động, ai có sáng tạo, chăm chỉ thì có thu nhập cao hơn, như vậy đã kết hợp các hình thức phân phối thu nhập , có tác dụng kích thích sản xuất.
    Trong quá trình sản xuất ngoài phân phối theo lao động cần tổ chức, thành lập các quỹ phúc lợi xã hội, các quỹ bảo hiểm xã hội giúp cho công nhân có thể vững tin làm việc, để năng suất lao động cao hơn.
    Các hình thức phân phối thu nhập có quan hệ chặt chẽ với nhau, gắn liền với nhau và chỉ khi đó mới phát huy hiệu quả tốt nhất. Mỗi hình thức phân phối chỉ biến đi cùng một lúc với phương thức sản xuất nhất định tương ứng với hình thái phân phối ấy. Chỉ thay đổi được quan hệ phân phối khi đã cách mạng hoá được quan hệ sản xuất đẻ ra quan hệ phân phối ấy. Phân phối có tác động rất lớn đối với sản xuất nên nhà nước cách mạng cần sử dụng phân phối như là một công cụ để xây dựng chế độ mới, để phát triển kinh tế theo hướng Xã Hội Chủ Nghĩa.
    3.5 – Phát huy các nguồn lực khác.
    Việc phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa tất yếu phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đây là tiêu chí quyết định tính tính định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa của sự phát triển kinh tế. Đồng thời phải đặt dưới sự quản lý của nhà nước thông qua hệ thống pháp luật và cơ chế kế hoạch mới- cơ chế kế hoach hướng dẫn, những đòn bẩy kinh tế (lương, tiền, giá ). Đồng thời khuyến khích thúc đẩy sản xuất kinh doanh, bảo đảm tăng cường và phát triển kinh tế bền vững, từng bước thực hiện công bằng xã hội, nâng cao mức sống của người dân.
    Phân phối thu nhập phải được thực hiện trên thị trường thông qua hoạt động của hệ thống cung cầu và giá cả hàng hoá trên thị trường quyết định nhằm bảo đảm tính linh hoạt. Nhà nước thông qua các chính sách và công cụ kinh tế để tác động vào phân phối thu nhập phân bổ nguồn lực đầu vào và điều tiết thu nhập cuối cùng của chủ thể trong nền kinh tế thị trường. Tăng cường nghiên cứu xây dựng và hoàn thiện các công cụ kinh tế để điều tiết phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường, phải chú ý cả chính sách công cụ tác động vào đầu vào, đầu ra để tác động vào phân phối nguồn lực. Nhà nước đóng vai trò tích cực trong việc phân bổ tài nguyên, đất đai, phân bổ lực lượng sản xuất, có chương trình giáo dục đào tạo, chính sách lãi suất cho vay vốn, chính sách xuất nhập khẩu. Để tác động vào phân phối thu nhâp cuối cùng nhà nước phải tác động tích cực vào tiền lương, thuế, thanh toán, chuyển khoản để điều hoà thu nhập. Nhà nước nắm vững thu nhập của mỗi người bằng cách hoàn thiện bộ máy tổ chức quản lý, xây dựng hệ thống luật pháp và hệ thống luật phù hợp.






















    C – KẾT LUẬN​ ​ Như vậy qua nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn chúng ta thấy được tầm quan trọng của vấn đề thu nhập, các loại hình thức phân phối thu nhập, và mối quan hệ giữa chúng. Vấn đề đó đang được đưa ra hàng ngày hàng giờ, và đang trở thành vấn đề lan giải của toàn xã hội, vì vậy sự tồn tại của chúng là một tất yếu khách quan.
    Đảng và Nhà nước ta đang chủ trương xây dựng một nền kinh tế thị trường định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa, trong đó tồn tại nhiều hình thức phân phối thu nhập trong đó phân phối thu nhập theo hình thức lao động là chủ yếu và chiếm vai trò chủ đạo.
    Bản chất của mối quan hệ giữa các hình thức phân phối thu nhập đó là xây dựng một đất nước Xã Hội Chủ Nghĩa, thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội dân chủ, văn minh.
    Chúng ta hiện nay là những sinh viên của trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân, tương lai chúng ta là những nhà kinh tế vì vậy chúng ta cần phải nắm vững, có quan điểm đúng đắn về các hình thức phân phối thu nhập, có như vậy chúng ta mới làm tốt được vai trò của nhà kinh tế, với những cơ sở về lí luận và thực tiễn đã nêu trong đề tài, chúng ta khẳng định chắc chắn rằng nước ta sẽ xây dựng được một nền kinh tế phất triển, đậm đà bản sắc dân tộc, trong đó tồn tại nhiêu thành phần kinh tế cũng như nhiều hình thức phân phối thu nhập.








    TÀI LIỆU THAM KHẢO.​ ​ 1. TS. Lê Minh Nghĩa. Giáo trình Kinh Tế Chính Trị. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia. Năm 2005.
    2. TS.Dương Thị Liễu. Tác động của điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan đối với quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa ở Việt Nam. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia. Năm 1998.
    3. GS TS-Tguyễn Duy Quý. Những vấn đề lí luận về Chủ Nghĩa Xã Hội và con đường đi lên Chủ Nghĩa Xã Hội ở Việt Nam. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia. Năm 1998.
    4. TS. Trịnh Đình Bảy. Giáo trình Triết học Mác-Lênin. Nhà xuất bản chính trị quốc gia. Năm 2004.
    5. TS Vũ Thiện Vương. Triết học Mac-Lênin về con người và việc xây dựng con người Việt Nam trong thời kì CNH-HĐH. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia. Năm 2001.
    6. Mai Ngọc Cường-Đỗ Đức Bình. Phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường. Nhà xuất bản Thống kê. Năm 1994.
    7. Nguyễn Đức Bình. Tăng trưởng kinh tế và phân phối thu nhập. Nhà xuất bản Khoa học xã hội. Năm 1993.








    MỤC LỤC​ Trang​ A: LỜI MỞ ĐẦU 1
    B: NỘI DUNG ĐỀ ÁN . 2
    I: Cơ sở lí luận về phân phối thu nhập cá nhân trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xó hội ở Việt Nam 2.
    1.1: Tính tất yếu khách quan tồn tại nhiều hình thức phân phối thu nhập cá nhân trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở VN . .2
    1.3: Các yếu tố ảnh hưởng đến phân phối TN 6
    1.4: Mối quan hệ giữa các hình thức phân phối TN 7
    1.4.1: Bản chất của mối quan hệ phân phối TN . 7
    1.4.2: Mối quan hệ phân phối thu nhập 8
    II: Thực trạng và việc hình thành, phát triển của quan hệ phân phối TN cá nhân trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xó hội chủ nghĩa ở Việt nam 9
    2.1: Khái quat quá trình phát triển của quan hệ phân phối TN . 9
    2.2: Những đánh giá về việc phân phối TN và mối quan hệ giữa chúng 10
    III: Giải pháp cơ bản đề ra để phát triển và dần hoàn thiện mối quan hệ phân phối TN cá nhân trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xó hội ở VN 12
    3.1: Đánh giá đưa ra các lĩnh vực thích hợp để các hình thức phân phối TN hiệu quả 12
    3.2: Giải pháp trong quá trình sản xuất 13
    3.3: Điều tiết và nâng cao thu nhập trong dân 13
    3.4: GiảI pháp xây dựng, phát triển quan hệ giữa các hình thức phân phối 14
    3.5. Phát huy các nguồn lực khác 15
    C. KẾT LUẬN . 17
    TÀI LIỆU THAM KHẢO 18
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...