Tài liệu ÔPn tập môn triết - cao cấp lý luận

Thảo luận trong 'Triết Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Vấn đề 1 : Nội dung của quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất và ngược lại. Ý nghĩa phương pháp luận. Sự vận dụng của Đảng ta
    Bài làm
    Ngay từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng và vận dụng tư tưởng, lý luận đó vào thực tiễn cách mạng Việt Nam để đề ra đường lối, cương lĩnh đúng đắn nhằm lãnh đạo đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Từ Đại hội Đảng lần thứ VI (tháng 12/1986) đến nay, Đảng đã khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn diện và sâu sắc trên toàn đất nước, trong đó chủ trương đổi mới của Đảng được Văn kiện Đại hội IX xác định là “Con đường công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có những bước nhảy vọt”. Chủ trương này thể hiện sự vận dụng đúng đắn quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất và ngược lại của triết học Mách Lênin (gọi tắt là quy luật lượng - chất) vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Việc tìm hiểu quy luật lượng - chất cũng giúp ta tránh được những khuynh hướng sai lầm nếu không nhận thức và áp dụng đúng quy luật này trong thực tiễn.
    Quy luật lượng và chất là 1 trong 3 quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật, nó chỉ rõ cách thức phát triển của sự vật, hiện tượng.
    Chất là 1 phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của các sự vật hiện tượng (SVHT), là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính làm cho nó là nó và phân biệt nó với cái khác. Chất của sự vật phụ thuộc vào những yếu tố cấu thành và phương thức liên kết giữa các yếu tố đó. Mỗi sự vật hiện tượng có nhiều thuộc tính nhưng chỉ có thuộc tính cơ bản mới quy định “chất” của sự vật vì chỉ khi nào thuộc tính cơ bản thay đổi thì chất của sự vật mới thay đổi. Tuy nhiên, việc phân biệt chất và thuộc tính cũng chỉ là tương đối vì nó còn phụ thuộc vào những mối quan hệ cụ thể của nó với những cái khác và mỗi thuộc tính có thể coi là một chất trong một quan hệ khác. Chất biểu hiện tính tương đối ổn định của sự vật và là cái khách quan vốn có không tách rời sự vật.
    Lượng là 1 phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật về số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu, tốc độ của sự vận động, phát triển của sự vật cũng như của các thuộc tính, yếu tố cấu thành nên sự vật. Lượng có thể được biểu hiện thành con số, đại lượng hoặc mức độ cũng giống như chất, lượng là cái khách quan vốn có của sự vật. Sự phân biệt giữa chất và lượng cũng là tương đối, nghĩa là có cái ở trong quan hệ này là chất nhưng trong quan hệ khác lại là lượng và ngược lại.
    Giữa lượng và chất có mối quan hệ biện chứng với nhau. Trong 1 SVHT, chất và lượng thống nhất quy định lẫn với nhau : chất nào lượng ấy và lượng nào chất ấy. Chất tương đối ổn định còn lượng thường xuyên biến đổi. Sự biến đổi về lượng có thể làm thay đổi về chất và ngược lại, nhưng trong một giới hạn nhất định thì sự thay đổi về lượng không làm thay đổi căn bản chất của sự vật, phạm vi giới hạn ấy gọi là độ. Nói cách khác, không phải bất kỳ sự thay đổi về lượng nào cũng dẫn đền sự thay đổi về chất ngay tức khắc mà chỉ khi lượng thay đổi vượt quá giới hạn của độ thì mới dẫn đến sự thay đổi về chất. Điểm giới hạn mà tại đó bất kỳ sự thay đổi nào về lượng cũng đưa ngay tới sự thay đổi về chất gọi là điểm nút. Sự thay đổi về lượng khi đạt tới điểm nút sẽ dẫn đến sự ra đời của chất mới và tạo thành độ mới.
    Sự thay đổi về chất qua điểm nút gọi là bước nhảy. Bước nhảy là một phạm triết học để chỉ ra sự chuyển hóa về chất của sự vật do những thay đổi về lượng trước đó gây ra. Đây là bước ngoặc căn bản kết thúc một giai đoạn trong sự biến đổi về lượng làm thay đổi chất, là sự gián đoạn trong quá trình biến đổi liên tục của các sự vật. Không có bước nhảy tức là không có sự thay đổi về chất. Khi chất mới ra đời nó sẽ quy định một lượng mới phù hợp với nó để tạo sự thống nhất giữa chất và lượng ở mỗi độ nhất định và chất sẽ tác động trở lại lượng, thúc đẩy quy mô, nhịp điệu tốc độ. Sự vật tồn tại trong sự thống nhất ấy, cứ thế một quá trình tác động mới với quy mô, nhịp điệu mới lại bắt đầu. Do đó có thể nói, phát triển là sự đứt đoạn trong liên tục, thông qua hình thức những bước nhảy là trạng thái liên hợp của các điểm nút. Cách thức của sự phát triển chính là những quá trình biến đổi đó :
    Thế giới sự vật hiện tượng là đa dạng, phong phú cho nên các bước nhảy cũng vậy. Có bước nhảy đột biến hoặc dần dần, có bước nhảy toàn bộ hoặc cục bộ, tức là diễn ra với khoảng thời gian khác nhau, quy mô khác nhau, nhưng dù với hình thức nào mỗi bước nhảy cũng là một sự thay đổi về chất.
    Từ mối quan hệ biện chứng giữa lượng và chất, trong đó sự phát triển của sự vật bao giờ cũng bắt đầu từ thay đổi về lượng dẫn đến thay đổi về chất và chất khi ra đời nó sẽ quy định lại quy mô, tốc độ của lượng, chúng ta khi muốn cải tạo sự vật về chất phải quan tâm đến quá trình tích lũy về lượng. Đồng thời phải chủ động tạo những điều kiện cần thiết để quá trình chuyển hóa từ chất cũ sang chất mới được thực hiện hoàn hảo
    Khi vận dụng quy luật mối quan hệ giữa chất và lượng vào thực tiễn, ta không được tuyệt đối hóa mặt nào, nếu tuyệt đối hóa một trong hai mặt này thì chúng ta sẽ rơi vào tư tưởng nôn nóng (tả khuynh) hoặc tư tưởng bảo thủ (hữu khuynh).
    Khuynh hướng nôn nóng tả khuynh là khuynh hướng không quan tâm thực hiện quá trình tích lũy về lượng mà chỉ chú ý thực hiện những bước nhảy vọt làm thay đổi về chất trong khi chưa có đủ điều kiện tích lũy về lượng cần thiết. Những người có tư tưởng này trong hoạt động thực tiễn thường nóng vội, chủ quan duy ý chí, họ cho rằng sự phát triển chỉ gồm toàn những bước nhảy liên tục nên có thể đốt giai đoạn
    Khuynh hướng bảo thủ hữu khuynh là khuynh hướng chí chú ý đến quá trình tích lũy về lượng, không chú ý phát huy nổ lực của nhân tố chủ quan, không dám thực hiện bước nhảy vọt về chất khi đã có sự tích lũy đầy đủ về lượng hoặc kéo dài sự tích lũy, chỉ nhấn mạnh đến sự biến đổi dần về lượng.
    Cả hai khuynh hướng trên đều dẫn đến những sai lầm có tác hại rất lớn làm cản trở hoặc kìm hãm sự phát triển của sự vật hiện tượng. Trong thực tiễn Việt Nam trước thời kỳ đổi mới, Đảng ta cũng có lúc phạm sai lầm của 2 khuynh hướng trên. Văn kiện Đại hội VI đã nêu “Do chưa nhận thức đầy đủ rằng thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một quá trình lịch sử tương đối dài, phải trãi qua nhiều chặng đường và do tư tưởng chỉ đạo chủ quan, nóng vội muốn bỏ qua những bước đi cần thiết trên thực tế, chúng ta đẩy mạnh công nghiệp hóa trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết, mặt khác chậm đổi mới cơ chế quản lý kinh tế đã lỗi thời”. Văn kiện còn nhận định trong công tác tổ chức thời kỳ này “khuyết điểm lớn nhất là sự trì trệ, chậm đổi mới công tác cán bộ. Việc lựa chọn, bố trí cán bộ vào các cơ quan lãnh đạo và quản lý các cấp còn theo quan niệm cũ kỹ và tiêu chuẩn không đúng đắn, mang nặng tính hình thức ” Chính những sai lầm này là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự khủng hoảng kinh tế xã hội trầm trọng ở nước ta trước thời kỳ đổi mới.
    Từ những thất bại trong đường lối chỉ đạo trước thời kỳ đổi mới, Đảng đã có những tổng kết, đánh giá kịp thời về những sai lầm trên. Đại hội VI của Đảng (năm 1986) đánh dấu bước đột phá đầu tiên của tư duy lý luận của Đảng trong việc vận dụng nội dung quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa lượng và chất trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta.
    Công cuộc đổi mới mà Đảng đã khởi xướng từ Đại hội VI và từ đó đến nay đang diễn ra trên đất nước ta có ý nghĩa như là một quá trình mang tính cách mạng bởi nó tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Trong quá trình chuyển biến đó thì công nghiệp hóa, hiện đại hóa được xem là nhiệm vụ trọng tâm và phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Để đạt được mục tiêu đề ra, Đảng đã khẳng định “Con đường công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có những bước nhảy vọt”.
    Phương hướng này chỉ ra rằng bên cạnh việc thực hiện những giải pháp nhằm tích lũy dần tiềm lực về khoa học công nghệ, về kết cấu hạ tầng ngày càng hiện đại và chuyển biến quy trình sản xuất từ nền sản xuất lao động thủ công sang lao động với phương tiện và phương pháp tiên tiến có năng suất cao theo những bước đi phù hợp với quy luật phát triển, chúng ta cần phải biết phát huy những lợi thế của đất nước, tạo điều kiện và phát huy tối đa nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam, chú trọng phát triển giáo dục và đào tạo, Khoa học và công nghệ . để làm nền tảng, động lực thúc đẩy sự nghiệp phát triển CNH-HĐH của đất nước có những bước nhảy vọt, đột phá. Nhân tố chủ quan có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc tạo sự đột phá về bước nhảy để rút ngắn thời gian trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước là sự vận dụng đúng đắn quy luật tác động của chầt và lượng để tạo sự đột phá trong bước nhảy. Tuy nhiên, quá trình CNH-HĐH cũng phải được xây dựng trên những bước đi tuần tự trong việc xác định cơ chế kinh tế cũng như xây dựng lực lượng lao động cơ bản trong hệ thống sản xuất tiên tiếncho phù hợp với điều kiện sản xuất hiện đại, có trình độ khoa học - công nghệ, nghiệp vụ chuyên môn và tay nghề vì như bất kỳ sự thay đổi về chất nào khác, những bước nhảy trong con đường CNH-HĐH hiện nay cũng chỉ có thể là kết quả của quá trình thay đổi về lượng, thích hợp ở đây bất kỳ một sự nôn nóng chủ quan, ảo tưởng nào đều có thể gây ra tổn thất cho cách mạng, cản trở sự nghiệp đổi mới đất nước.
    Tóm lại, việc vận dụng nội dung quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa lượng và chất cũng như ý nghĩa phương pháp luận của nó có vai trò to lớn trong việc xem xét và giải quyết những vấn đề do công cuộc đổi mới theo định hướng XHCN hiện nay ở nước ta đặt ra.
    Đối với người Đảng viên, công viên chức nhà nước, việc nắm vững quy luật lượng - chất sẽ giúp chúng ta trong hoạt động chuyên môn cũng như trong quản lý, chỉ đạo : một mặt phải biết phát huy đúng mức vai trò của nhân tố chủ quan, có quyết tâm và nghị lực cao trong việc thực hiện đột phá trong công việc khi có điều kiện chín muồi, một mặt phải biết cách phân tích, xác định đúng quy mô, nhịp điệu của các sự việc để có những biện pháp giải quyết thích hợp, tránh rơi vào khuynh hướng nôn nóng chủ quan duy ý chí hoặc bảo thủ.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...