Tài liệu Nước pháp lấy đất nam kỳ

Thảo luận trong 'Lịch Sử' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    NƯỚC PHÁP LẤY ĐẤT NAM KỲ
    1. QUÂN PHÁP ĐÁNH ĐÀ NẴNG. Trong thời đại khó khăn như đời vua Dực Tông, mà vua quan cứ khư khư giữ lấy thói cũ, không biết theo thời mà mở nước cho người ta vào buôn bán, không biết nhân dịp mà khai hoá dân trí, lại vì sự sùng tín mà đem giết hại người trong nước, mà đem làm tội những người đi giảng đạo, bởi những sự lầm lỗi ấy, cho nên nước Pháp mới có cớ dùng binh lực để báo thù cho những người giáo sĩ bị hại [1].
    Nguyên từ năm Tân Hợi (1851) là năm Tự Đức thứ 4 về sau, nghĩa là từ khi có tờ dụ cấm đạo lần thứ hai, ở Bắc Kỳ có mấy người giáo sĩ là ông Bonard, ông Charbonnier, ông Matheron và ông giám mục I-pha-nho tên là Diaz bị giết. Còn những giáo sĩ khác thì phải đào hầm đào hố mà ở, hoặc phải trốn tránh ở trong rừng trong núi để giảng đạo. Những tin ấy về đến bên Tây, các báo chí ngày ngày kể những thảm trạng của các người giáo sĩ đi truyền đạo ở nước ta, lòng người náo động cả lên.
    Chính phủ nước Pháp bèn sai ông Leheur de Ville-sur-Arc, đem chiếc chiến thuyền “Catinat” vào cửa Đà Nẵng rồi cho người đem thư lên trách Triều đình Việt Nam về việc giết đạo. Sau khi thấy quan ta lôi thôi không trả lời, quân nước Pháp bèn bắn phá các đồn luỹ ở Đà Nẵng, rồi bỏ đi. Bấy giờ là tháng 8 năm Bính Thìn (1856) là năm Tự Đức thứ 9.
    Được 4 tháng sau thì sứ thần nước Pháp là ông Montigny ở nước Tiêm La sang, để điều đình mọi việc. Chiếc tàu của ông Montigny đi vào đóng ở cửa Đà Nẵng, rồi cho người đưa thư lên nói xin cho người nước Pháp được tự do vào thông thương, đặt lĩnh sự ở Huế, mở cửa hàng buôn bán ở Đà Nẵng, và cho giáo sĩ được tự do đi giảng đạo. Trong bấy nhiêu điều triều đình nước ta không chịu điều nào cả.
    Bấy giờ bên nước Pháp đã lập lại đế hiệu, cháu ông Nã-phá-luân đệ nhất là Nã-phá-luân đệ tam lên làm vua. Triều chính lúc bấy giờ thì thuận đạo, lại có bà Hoàng hậu Eugénie cũng sùng tín. Vả chăng khi chiếc tàu “Catinat” vào cửa Đà Nẵng, có ông giám mục Pellerin trốn được xuống tàu rồi về bệ kiến Pháp hoàng, kể rõ tình cảnh các người giảng đạo ở Việt Nam.
    Ông P.Cultru chép ở trong sách Nam kỳ sử ký (Histoire de la Cochinchine) rằng: lúc bấy giờ có nhiều người quyền thế như ông chủ giáo thành Rouen là Mgr de Bonnechose và có lẽ cả bà Hoàng hậu cũng có nói giúp cho ông giám mục Pellerin. Bởi vậy Pháp hoàng mới quyết ý sai quan đem binh thuyền sang đánh nước ta, Lại nhân vì những giáo sĩ nước I-pha-nho cũng bị giết, cho nên chính phủ hai nước mới cùng nhau trù tính việc sang đánh nước Việt Nam. Ấy cũng tại vua quan mình làm điều trái đạo, giết hại những người theo đạo Gia tô cho nên mới có tai biến như vậy.
    Tháng 7 năm Mậu Ngọ (1858) là năm Tự Đức thứ 11, Hải quân Trung tướng nước Pháp là Rigault de Genouilly đem tàu Pháp và tàu I-pha-nho cả thảy 14 chiếc, chở hơn 3.000 quân của hai nước vào cửa Đà Nẵng, bắn phá các đồn luỹ, rồi lên hạ thành An Hải và thành Tôn Hải.
    Triều đình được tin ấy liền sai ông Đào Trí ra cùng với quan Tổng đốc Nam Nghĩa là Trần Hoằng tiễu ngự. Ông Đào Trí ra đến nơi thì hai cái hải thành đã mất rồi. Triều đình lại sai quan Hữu quân Lê Đình Lý làm tổng thống đem 2.000 cấm binh vào án ngự.
    Ông Lê Đình Lý vào đánh với quân Pháp một trận ở xã Cẩm Lệ bị đạn, về được mấy hôm thì mất.
    Vua Dực Tông lại sai quan Kinh lược sứ là ông Nguyễn Tri Phương vào làm tổng thống, ông Chu Phúc Minh làm Đề đốc cùng với ông Đào Trí chống giữ với quân Pháp và quân I-pha-nho.
    Ông Nguyễn Tri Phương lập đồng Liên Trì và đắp luỹ dài từ Hải Châu cho đến Phúc Ninh, rồi chia quân ra phòng giữ. Cứ như sách Nam kỳ sử của ông Cultru thì ý quan Trung tướng Rigault de Genouilly định lấy Đà Nẵng xong rồi, lên đánh Huế, nhưng mà đến lúc bấy giờ thấy quan quân phòng giữ cũng rát, và lại có người đem tin cho Trung tướng không biết rõ tình thế ra làm sao, mà đường sá lại không thuộc, cho nên cũng không dám tiến quân lên.
    Nhân vì khi trước các giáo sĩ đều nói rằng hễ quân Pháp sang đánh, thì dân bên đạo tức khắc nổi lên đánh giúp, đến nay không thấy tin tức gì, mà quân lính của Trung tướng thì tiến lên không được. Ở Đà Nẵng thì chỗ ăn chỗ ở không có, lại phải bệnh dịch tả chết hại mất nhiều người, bởi vậy Trung tướng lấy làm phiền lắm. Bấy giờ có ông giám mục Pellerin cũng đi theo sang ở dưới tàu Ménésis, Trung tướng cứ trách ông giám mục đánh lừa mình, giám mục cũng tức giận bỏ về ở nhà tu dạy đạo tại thành Pénang ở bên Mã Lai.
    Được mấy tháng, Trung tướng liệu thế đánh Huế chưa được, bèn định kế vào đánh Gia Định là một nơi dễ lấy, và lại là một nơi trù phú của nước Nam ta.
    -------------------------------
    2. QUÂN PHÁP VÀO ĐÁNH GIA ĐỊNH. Trước đã có người bàn với Trung tướng Rigault de Genouilly ra đánh Bắc kỳ, nói rằng ở Bắc kỳ có hơn 40 vạn người đi đạo, và lại có đảng theo nhà Lê, có thể giúp cho quân Pháp được thành công. Trung tướng cho đi do thám biết rằng đất Nam kỳ dễ lấy hơn, và lại có đất giàu có, nhiều thóc gạo. Đến tháng giêng năm Kỷ Mùi (1859) là năm Tự Đức thứ 12, Trung tướng giao quyền lại cho đại tá Toyon ở lại giữ các đồn Đà Nẵng, rồi còn bao nhiêu binh thuyền đem vào Nam kỳ. Quân Pháp vào cửa Cần Giờ, bắn phá các pháo đài ở hai bên bờ sông Đồng Nai, rồi tiến lên đánh thành Gia Định.
    Ở Gia Định, bấy giờ tuy có nhiều binh khí, nhưng quân lính không luyện tập, việc võ bị bỏ trễ nải, cho nên khi quân Pháp ở cửa Cần Giờ tiến lên, quan Hộ đốc là Vũ Duy Ninh vội vàng tư đi các tỉnh lấy binh về cứu viện; nhưng chỉ trong hai ngày thì thành vỡ. Vũ Duy Ninh tự tận. Quân nước Pháp và nước I-pha-nho vào thành, lấy được 200 khẩu súng đại bác, 8 vạn rưỡi kilô thuốc súng và độ chừng 18 vạn phật lăng (francs) cả tiền lẫn bạc, còn các binh khí và thóc gạo thì không biết bao nhiêu mà kể.
    Trung tướng Rigault de Genouilly lấy được thành Gia Định rồi, đốt cả thóc gạo và san phẳng thành trì làm bình địa, chỉ để một cái đồn ở phía nam, sai thuỷ quân trung tá Jauréguiberry đem một đạo quân ở lại chống giữ với quân của ông Tôn Thất Hợp đóng ở Biên Hoà.
    Trung tướng lại đem quân trở ra Đà Nẵng, rồi tiến lên đánh một trận ở đồn Phúc Ninh. Quân ông Nguyễn Tri Phương thua phải lui về giữ đồn Nại Hiên và đồn Liên Trì.
    Trung tướng muốn nhân dịp đó mà định việc giảng hoà, nhưng mà Triều đình cứ để lôi thôi mãi, người thì bàn hoà, kẻ thì bàn đánh, thành ra không xong việc gì cả [1]. Mà quân Pháp lúc bấy giờ ở Đà Nẵng khổ sở lắm, nhiều người có bệnh tật, Trung tướng Rigault de Genouilly cũng đau, phải xin về nghỉ.
    Chính phủ Pháp sai Hải quân Thiếu tướng Page (Ba-du) sang thay cho Trung tướng Rigault de Genouilly và nhân thể để chủ việc giải hoà cho xong. Đến tháng 10 năm Kỷ Mùi (1859) thì Thiếu tướng sang đến nơi, và cho người đưa thư bàn việc hoà, chỉ cốt xin đừng cấm đạo, để cho các giáo sĩ được tự do giảng dạo, đặt lĩnh sự coi việc buôn bán ở các cửa bể và đặt sứ thần ở Huế. Đại để thì cũng như những điều của ông Montigny đã bàn năm trước. Nhưng chẳng may lúc bấy giờ ở trong Triều không ai hiểu chính sách ngoại giao mà chủ trương việc ấy, hoá ra làm mất cái dịp hay cả cho hai nước.
    Thiếu tướng thấy cuộc hoà không xong bèn tiến binh lên đánh, trận ấy bên quân Pháp chết mất một viên lục quân trung tá là Dupré Déroulède.
    Khi quân Pháp và quân I-pha-nho sang đánh nước ta ở Đà Nẵng và ở Gia Định, thì quân nước Anh và quân nước Pháp đang đánh nước Tàu ở mạn Hoàng Hải. Đến bấy giờ quân Pháp cần phải tiếp sang bên Tàu, chính phủ nước Pháp mới truyền cho Thiếu tướng Page phải rút quân ở Đà Nẵng về, và chỉ để quân giữ lấy Gia Định, còn bao nhiêu binh thuyền phải đem sang theo Hải quân Trung tướng Charner đi đánh Tàu. Bởi vậy đến tháng ba năm Canh Thân (1860) quân Pháp đốt cả dinh trại ở Trà Sơn rồi xuống tàu. Về đến Gia Định, Thiếu tướng Page để Hải quân đại tá d’Ariès ở lại giữ Gia Định, còn bao nhiêu binh thuyền đem lên phía bắc hội với binh thuyền của nước Anh để đánh nước Tàu.
    Triều đình ở Huế thấy quân Pháp bỏ Đà Nẵng đi, bèn sai Nguyễn Tri Phương, Phạm Thế Hiển vào Nam kỳ, để cùng với ông Tôn Thất Hợp sung Gia Định quân thứ.
    Đến tháng 7 năm Canh Thân (1860) ông Nguyễn Tri Phương khởi hành . Lúc gần đi, ông ấy có tâu bày mấy lẽ về việc giữ nước và nói rằng việc đánh nhau với nước Pháp bây giờ khó gấp năm gấp bảy lúc trước, nhưng ông ấy xin cố hết sức để đền ơn nước, còn ở mặt Quảng Nam mà có việc gì, thì ông Phan Thanh Giản và ông Nguyễn Bá Nghi có thể cáng đáng được.
    Quân Pháp và quân I-pha-nho ở Sài Gòn lúc bấy giờ chỉ có độ 1.000 người mà quân của Việt Nam ta thì có đến hơn một vạn người. Nhưng mà quân ta đã không luyện tập, lại không có súng ống như quân Tây. Mình chỉ có mấy khẩu súng cổ, bắn bằng đá lửa, đi xa độ 250 hay là 300 thước tây là cùng; còn súng đại bác thì toàn là súng nạp tiền mà bắn mười phát không đậu một. Lấy những quân lính ấy, những khí giới ấy mà đối địch với quân đã tập theo lối mới, bắn bằng súng nạp hậu và bằng đạn trái phá, thì đánh làm sao được. Bởi vậy cho nên xem trận đồ của Việt Nam ta từ đầu cho đến cuối, chỉ có cách đào hầm đào hố để làm thế thủ chứ không bao giờ có thế công, mà người Tây thì lợi cả công lẫn thủ. Tuy vậy, ông Nguyễn Tri Phương cùng với quan Tham tán đại thần Phạm Thế Hiển vào xếp đặt ở Gia Định một cách rất có qui củ, đắp dãy đồn Kỳ Hoà (người Pháp gọi là dãy đồn Chí Hoà) cũng hợp qui thức, để chống nhau với quân của đại tá d’Ariès. Hai bên đã từng đánh nhau hai ba trận, đều bị thiệt hại cả.
    Đến tháng 9 năm Canh Thân (1860), thì nhà Thanh bên Tàu ký hoà ước với nước Anh và nước Pháp, hai bên bãi sự chiến tranh. Chính phủ nước Pháp sai Hải quân Trung tướng Charner đem binh thuyền về chủ trương việc lấy Nam kỳ.
    Tháng Giêng năm Tân Dậu (1861), Trung tướng Charner đem cả thảy 70 chiếc tàu và 3.500 quân bộ về đến Gia Định [2].
    Được 20 ngày thì trung tướng truyền lệnh tiến quân lên đánh lấy đồn Kỳ Hoà. Hai bên đánh nhau rất dữ trong hai ngày. Quân Pháp chết hơn 300 người, nhưng mà súng Tây bắn hăng quá, quân ta địch không nổi, phải thua bỏ đồn chạy về Biên Hoà.
    Trận ấy bên Tây thì có lục quân Thiếu tướng Vassoigne, đại tá I-pha-nho Palanca và mấy người nữa bị thương, mà bên ta thì ông Nguyễn Tri Phương bị thương, em ngài là Nguyễn Duy tử trận, quan Tham tán là Phạm Thế Hiển về đến Biên Hoà được mấy hôm cũng mất, còn quân sĩ thì chết hại rất nhiều.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...