Luận Văn NT047 - Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào KCN,KCX tại Việt Nam. Thực trạng và giải pháp

Thảo luận trong 'Ngoại Thương' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Lời mở đầu
    Cùng với quá trình toàn cầu hoá đang diễn ra sâu rộng trên thế giới, hoạt động đầu tư nước ngoài cũng trở nên sôi động hơn bao giờ hết. Đến nay, hầu hết các nước đều đã mở cửa nền kinh tế để đón nhận nguồn vốn này, đặc biệt là các nước đang phát triển thì sự có mặt của nguồn vốn đầu tư nước ngoài được xem như là một trong những biện pháp cứu cánh để phát triển kinh tế đất nước.
    Khi xem xét sự vận động của nguồn vốn này, ta nhận thấy chúng không những chịu ảnh hưởng của qui luật cung cầu nghĩa là chảy từ nơi “thừa” sang nơi “thiếu’’ vốn mà còn phụ thuộc rất lớn vào một thứ “dầu bôi trơn” - đó chính là môi trường đầu tư ở nước tiếp nhận đầu tư. Nhận thức được điều trên, các nước không ngừng cải thiện môi trường đầu tư nước mình nhằm cạnh tranh với các nước khác nhằm “dẫn” luồng vốn này vào nước mình. Vì thế, một trong những công cụ thực hiện mục tiêu trên ra đời - đó là mô hình khu công nghiệp, khu chế xuất (KCN,KCX)- được áp dụng ở nhiều nước đặc biệt là các nước đang phát triển ở khu vực Châu á - Thái Bình Dương trong đó nhiều nước đã gặt hái được thành công từ mô hình này.
    Việt Nam chúng ta cũng không nằm ngoài quĩ đạo chung này. Ngay sau khi mở cửa nền kinh tế thì vào năm 1987, Chính phủ ban hành luật Đầu tư nước ngoài ra đời nhằm điều chỉnh, khuyến khích hoạt động đầu tư nước ngoài vào Việt Nam là tiền đề cho sự ra đời của mô hình trên. Xuất phát từ mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước, cũng như học hỏi và phát huy kinh nghiệm của các nước đi trước, năm 1991 Chính phủ ban hành Quy chế KCX, từ đó chúng ta bắt đầu triển khai mô hình khu chế xuất và sau đó là khu công nghiệp với mục đích biến những khu này trở thành công cụ hữu hiệu thu hút luồng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam thông qua việc cải thiện môi trường đầu tư với những chính sách ưu đãi về cơ sở hạ tầng, về tài chính và cơ chế chính sách .
    Mặc dù có nhiều ý kiến khác nhau về lợi ích của KCN, KCX nhưng thực tế trong thời gian qua, KCN- KCX ở Việt Nam đã luôn theo sát mục tiêu thành lập, đóng góp một phần đáng kể vào tăng trưởng kinh tế, vào gia tăng giá trị sản lượng công nghiệp, kim ngạch xuất nhập khẩu, đồng thời tạo ra thêm một lượng lớn việc làm cho người lao động. Tính đến hết năm 2001, đã hình thành một hệ thống gồm 68 KCN, KCX trên phạm vi cả nước thu hút được 908 dự án đầu tư nước ngoài với tổng số vốn đăng kí là 8720 triệu USD, chiếm hơn 40% tổng số vốn đăng kí vào cả nước. Đây thật sự là một kết quả đáng mừng, khẳng định hướng đi đúng đắn của Đảng và Nhà nước trong việc phát triển mô hình này.
    Quãng thời gian hơn 10 năm (1991-2002) chưa phải là dài đối với sự phát triển của một mạng lưới các khu KCN, KCX nhưng cũng đủ để chúng ta nhìn lại, xem xét, đánh giá những thành công, những kết quả đạt được cũng như những những hạn chế, khó khăn đang gặp phải. Vì thế cần có một bản nghiên cứu về vai trò, ý nghĩa của mô hình này trong việc thu hút nguồn vốn FDI, phân tích, đánh giá thực trạng thu hút nguồn vốn FDI vào KCN, KCX ở Việt Nam, từ đó đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện mô hình trên và thúc đẩy hơn nữa hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các KCN - KCX trong thời gian tới. Đó cũng chính là lý do em chọn đề tài khoá luận này.

    Đề tài: Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào KCN,KCX tại Việt Nam. Thực trạng và giải pháp


    Khoá luận này được chia làm 3 chương:
    Chương 1: ý nghĩa của khu công nghiệp, khu chế xuất trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
    Chương 2:Thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào KCN, KCX ở Việt Nam trong thời gian qua
    Chương 3: Định hướng và giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào KCN, KCX ở Việt Nam trong thời gian tới
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...