Luận Văn NN039 - Tìm hiểu một số kiểu câu liên quan đến tồn tại trong tiếng Việt - từ góc độ ngữ nghĩa và ngữ

Thảo luận trong 'Ngôn Ngữ Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    PHẦN MỞ ĐẦU


    1. Đối tượng nghiên cứu, lý do chọn đề tài


    Từ lâu, các nhà Việt ngữ học trong và ngoài nước đã chú ý tới những kiểu câu kiểu sau đây trong tiếng việt.

    (1). Trên bàn có một lọ hoa.

    (2). Dưới suối nhởn nhơ bơi những con cá bạc.

    (3). Từ đằng xa, tiến lại một người con gái.

    (4). Trên xe, chễm chệ ngồi một người to béo.

    (5). Ngã bố, con! Cháy rừng U Minh Thượng rôi!

    (6). Đông người quá! Nhiều muỗi ghê!

    Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi trong bản khoá luận này là một số kiểu câu nằm trong phạm vi đó. Cụ thể là, chúng tôi sẽ khảo sát bốn kiểu câu sau đây, tồn tại với tính cách là những câu tách biệt, hoạt động trong các văn bản trong giao tiếp.

    Nhóm thứ nhất là những câu đã được thừa nhận là những câu tồn tại điển hình, mà mô hình phổ biến nhất là: thành phần chỉ vị trí không gian + vị từ tồn tại “có”+ phần danh chỉ đối tượng tồn tại.

    Ví dụ:

    Ngày xưa, ở làng nọ có một quả núi cao.

    Trên núi có một cái hang

    Trước cửa hang có một tảng đá hình con thỏ.

    [Thỏ ngọc, NXB Kim Đồng, 1982]

    Nhóm thứ hai là những câu có mô hình: thành phần có ý nghĩa không gian có giới từ: Từ + cụm vị từ (liên quan tới sự vận động hoặc hàm ẩn sự vận động trong không gian theo một cách nào đó, sự thay đổi vị trí theo một hướng nhất định) + phần danh.

    Ví dụ:

    Từ đằng xa, tiến lại một người con gái.

    Từ trong, lù lù đi ra hai cái bóng vệ quốc quân với mũ ca nô và aó trấn thủ.

    Cùng lúc ấy lạch phạch chạy tới một chiếc bình bịch nhỏ.

    Từ trong quả thị chui ra một cô gái.

    Nhóm thứ ba là những câu có mô hình : thành phần chỉ không gian + vị từ + phần danh, miêu tả một sự tình ở một phạm vi không gian cố định.

    Ví dụ:

    Dưới suối lững lờ bơi mấy con cá nhỏ

    Trước mặt chúng tôi sừng sừng một vách đá cheo leo

    Trên xe ngồi chễm chệ một bà to béo.

    Nhóm thứ tư là những câu có mô hình: vị từ + danh từ, gắn với những sự tình, những biến cố ngoài kiểm tra, thường có khả năng hoạt động như những cảnh báo, ngăn chặn.

    Ví dụ :

    Ngã bố, con !

    Bay mất con chim hoạ mi của tao giờ !

    Cháy rừng U Minh Thượng rồi, anh em ơi !.

    Ẩn đằng sau, hay nói đúng hơn là gắn liền với những kiểu câu đó là hàng loạt những vấn đề có ý nghĩa đáng đựơc quan tâm đối với cú pháp, ngữ pháp, ngữ nghĩa Chẳng hạn, vấn đề phạm vi và ranh giới của câu tồn tại, mối liên hệ của nó với các hiện tượng kế cận. Nên mở rộng phạm vi câu tồn tại đến đâu, ở góc độ nào, có những khía cạnh nào đáng quan tâm , sự tác động của các nhân tố khác nhau đến việc hình thành các kiểu câu, mối quan hệ qua lại giữa tổng thể câu và các thành tố tham gia vào câu, các khía cạnh nghĩa và ngữ dụng của nó

    Ý kiến của các nhà nghiên cứu lâu nay xung quanh các hiện tượng đó còn chưa thống nhất, cũng chưa có những miêu tả, đánh giá tương đối kỹ về các mặt trong cách nhìn từ những chiều khác nhau, đặc biệt là các nhân tố về nghĩa , ngữ dụng và vai trò chung của cấu trúc. Đây đó, cũng đã có những bài báo đề cập tới vấn đề theo hướng đó,chẳng hạn,bài viết của Lý Toàn Thắng. Song chủ yếu vẫn là tổng kết để gợi mở một vấn đề, trên góc độ ngôn ngữ học đại cương. Do vậy, thực ra các nhân tố nghĩa và ngữ dụng, đặc biệt là ngữ dụng vẫn chưa thể có điều kiện để chú ý tới một cách tương đối hệ thống. Các hiện tượng vẫn được xem xét trên cơ sở được quy vào một mô hình câu chung.

    Trong khoá luận này, chúng tôi chủ trương tách ra một số nhóm câu để phân tích. Cách làm đó là có định hướng và có lý do của nó.

    Thứ nhất, phạm vi những câu tượng tự và biểu hiện của chúng khá đa dạng, mặc dù, ở cấp độ cấu trúc hình thức trừu tượng nhất đều có chung một mô hình.Theo đó, phần vị từ đứng trước, phần danh đi sau, mà Lý Toàn Thắng gọi là những câu “P - N”.

    Nếu tính đến những đặc trưng cấu tạo, ngữ nghĩa vầ ngữ dụng cụ thể hơn và theo những tinh thần miêu tả các đơn vị thường được gọi là những cấu trúc, theo cách hiểu gần đây trong ngôn ngữ học, thì cần phải tiếp tục chia nhỏ hơn thành các kiểu câu để xem xét. Việc tìm hiểu diện mạo đầy đủ của các hiện tượng như vậy vượt quá khả năng, trình độ và điều kiện thời gian của chúng tôi.Vì vậy, cách tốt nhất là khoanh lại một vùng cụ thể để làm việc. Những kết quả thu được là một bước góp phần vào việc tiếp tục nghiên cứu vấn đề, tổng hợp toàn bộ vấn đề.

    Thứ hai, việc khoanh lại vấn đề như vậy,cho phép chúng tôi đi vào xem xét sâu hơn, kỹ hơn những khía cạnh cụ thể nhưng đáng được lưu ý mà khi xem xét trên góc độ chung hơn thường không để ý tới. Bản chất của hiện tượng nhiều khi lại được bộc lộ ra qua các khía cạnh như thế, sự xem xét tỷ mỷ hơn kiểu như thế.

    Thứ ba, những nhóm câu mà chúng tôi lựa chọn xem xét vừa bao gồm những câu tồn tại điển hình, vừa bao gồm những kiểu câu trung gian tập trung tương đối rõ sự đa dạng, chưa thống nhất về ý kiến. Điều đó, đã tạo điều kiện để hy vọng rằng, từ đây có thể nhìn vấn đề rộng hơn, sang các hiện tượng khác.



    Đề tài: Tìm hiểu một số kiểu câu liên quan đến tồn tại trong tiếng Việt - từ góc độ ngữ nghĩa và ngữ dụng


    2. Mục đích nhiệm vụ và ý nghĩa của bài khóa luận tốt nghiệp


    Trong bài khoá luận tốt nghiệp này, chúng tôi đặt ra cho mình nhiệm vụ cơ bản sau đây.

    1) Tìm hiểu một số nét chung trong tình hình nghiên cứu về các nhóm câu được quan tâm.

    2) Trên cơ sở đó, tìm hiểu những đặc trưng nguyên mẫu của những câu những câu tồn tại điển hình. So sánh các kiểu câu còn lại với câu tồn tại điển hình, chỉ ra sự gần gũi và độ cách biệt giữa chúng.

    3) Miêu tả các kiểu câu đó về các mặt ngữ nghĩa, ngữ dụng.

    Tìm hiểu những vấn đề đó, chúng tôi hy vọng đóng góp một phần vào việc từng bước tiến tới một quan niệm đầy đủ hơn về câu tồn tại tiếng Việt, góp phần miêu tả các kiểu câu đó theo quan điểm ngữ nghĩa, ngữ dụng. Từ đó, đóng góp những tư liệu và cơ sở nhất định hữu ích ít nhiều cho các nhà nghiên cứu, giải quyết những hiện tượng liên quan trong lĩnh vực cú pháp. Chẳng hạn, vấn đề xử lý các thành phần câu, các kiểu câu trong khuôn khổ có liên quan. Mặc dù, thành phần câu không phải là phạm vi quan tâm của khoá luận này.

    3. Tư liệu và phương pháp nghiên cứu

    3.1. Nguồn tư liệu


    Nguồn tư liệu mà chúng tôi sử dụng trong khoá luận này chủ yếu lấy từ các truyện ngắn. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng sưu tầm thêm tư liệu từ một số loại tạp chí và báo như : văn nghệ quân đội, văn hoá - văn nghệ công an, tạp chí văn, baó văn nghệ, văn nghệ trẻ.

    Ngoài những nguồn tư liệu thu thập trên các sách báo, chúng tôi cũng tôi sưu tầm thêm rất nhiều câu khẩu ngữ hàng ngày và một số tư liệu thừa hưởng được từ ghi chép riêng của người hướng dẫn.

    3.2. Phương pháp nghiên cứu

    Trong quá trình làm việc, chúng tôi tiến hành sử dụng phương pháp phân tích ngữ cảnh. Chúng tôi đặt các kiểu câu đó vào mối quan hệ với những câu đi trước hay sau nó. Tức quan sát, phân tích nó trong ngữ cảnh rộng vượt ra ngoài khuôn khổ phát ngôn hẹp hoặc tính tới các nhân tố khác nhau tác động tới sự hoạt động của phát ngôn như các thủ pháp thực nghiệm trong phân tích ngữ cảnh: mở rộng ngữ cảnh; thay thế thêm bớt các yếu tố v.v. sẽ được sử dụng kèm theo trong quá trình phân tích.

    Ngoài việc sử dụng các phương pháp phân tích trên, trong khoá luận này chúng tôi cũng tiến hành sử dụng các phương pháp xây dựng mô hình nguyên mẫu, phương pháp so sánh đối chiếu (cụ thể ở đây là so sánh các kiểu câu với câu tồn tại nguyên mẫu, và so sánh mức độ tồn tại giữa các kiểu câu với nhau ).

    Trong bài khoá luận này, chúng tôi cũng sử dụng một vài ký hiệu thường dùng trong ngôn ngữ học, được qui ước như sau:

    Dấu sao đi kèm các ví dụ:

    (*) Ví dụ bất thường.

    (**) Ví dụ trích dẫn theo nguồn tư liệu của thầy giáo hướng dẫn.

    Dấu (?) đặt trước các ví dụ:

    (?): ví dụ đáng hoài nghi.

    (??): Ví dụ rất đáng hoài nghi

    4. Kết cấu của khóa luận

    Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, khoá luận gồm hai chương với những nội dung chính sau:

    Chương I: Mối quan hệ của các kiểu câu được xét với đặc tính tồn tại và câu tồn tại điển hình (nguyên mẫu).

    Nhiệm vụ của chương này là tổng kết một số quan niệm xung quanh vấn đề về câu tồn tại, đưa ra quan niệm về câu tồn tại nguyên mẫu. Từ đó đối chiếu, so sánh với các đặc điểm của các kiểu câu được xét trong khoá luận về đặc tính “tồn tại” của chúng. Cuối cùng đưa ra bảng tổng kết về mức độ gần xa các kiểu câu so với mô hình nguyên mẫu.

    Chương II: Miêu tả các đặc trưng ngữ nghĩa –ngữ dụng ba kiểu câu ngoài phạm vi câu tồn tại điển hình.

    Như đầu đề đã nói, nhiệm vụ của chương này là lần lượt miêu tả, phân tích một cách cụ thể ba kiểu câu đã được giới thiệu trong phần đầu khóa luận về các mặt ngữ nghĩa và ngữ dụng. Các mặt đó tồn tại song song trong các kiểu câu và có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...