Báo Cáo NN001 - Khảo sát các đơn vị thành ngữ trong một số truyện ngắn của Nam Cao giai đoạn 1930-1945

Thảo luận trong 'Ngôn Ngữ Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    PHẦN MỞ ĐẦU


    1. Lý do chọn đề tài


    Nam Cao được coi là một trong những nhà văn tiêu biểu nhất của văn học Việt Nam thế kỉ XX. Ông đã để lại cho chúng ta một kho tàng to lớn những tác phẩm như tiểu thuyết( Sống mòn), truyện ngắn( Chí phèo, Một đám cưới ) cả trước và sau cách mạng. Qua những tác phẩm của mình, đặc biệt là truyện ngắn ông đã khắc họa thành công thế giới nhân vật cùng sự miêu tả tâm lí điêu luyện tạo nên một phong cách riêng cho văn xuôi Nam Cao. Và chính vì thế, tác phẩm của ông trở thành đối tượng nghiên cứu của các nhà phê bình Văn học, của các nhà ngôn ngữ học và ngày càng thu hút đông đảo lực lượng nghiên cứu.

    “Nam Cao toàn tập” là một bộ sách gồm ba tập: Tập I và II gồm những truyện ngắn Nao Cao viết trước cách mạng tháng 8 và truyện dài “Người hang xóm”. Tập III gồm những truyện viết sau cách mạng cùng tiểu thuyết “Sống mòn”. Đây là một tác phẩm có thể nói đã thống kê được khá đầy đủ các tác phẩm của Nam Cao và nó trở thành một nguồn tư liệu đáng quý cho các nhà nghiên cứu về Nam Cao, về tác phẩm của Nam Cao. Thông qua những truyện ngắn này người đọc cũng phần nào thấy rõ được những quan điểm sống, quan điểm sang tác, quan điểm nghệ thuật cùng với cách sử dụng ngôn ngữ trong việc xây dựng cốt truyện, lời kể, lời đối thoại giữa các nhân vật của Nam Cao. Rõ ràng trong quá trình sáng tạo nghệ thuật, mỗi nhà văn có một cảm quan hiện thực và một cảm hứng sáng tác riêng. Hệ thống ngôn ngữ được tác giả sử dụng thường rất dung dị, tự nhiên mang đậm hơi thở của cuộc sống. Hệ thống ấy có thể được tạo bởi thuật ngữ (từ ngữ nghề nghiệp), từ thông tục và cả những thành ngữ và quán ngữ nữa. Trong đó, các thành ngữ được các nhà văn sử dụng rất có hiệu quả. Và Nam Cao cũng không phải là một ngoại lệ, bởi quan điểm sáng tác của ông chủ trương là bám sát đời sống gần gũi với nông dân cùng khổ, với những lời ăn tiếng nói hàng ngày, thoát bỏ mọi quan điểm khuôn sáo ước lệ tượng trưng, cách điệu của ngôn văn học thời trung đại, bảo tồn và phát triển mọi giá trị truyền thống.

    Thành ngữ là một đơn vị ngôn ngữ mang tính chất dân tộc sâu sắc. Nó thường xuyên có mặt trong lời ăn tiếng nói của mỗi người dân trong cuộc sống. Bất kì nơi đâu, trong thời gian nào thì thành ngữ cũng có thể xuất hiện khi viết chuyện, khi viết thư, khi giao tiếp với nhau Nó là một sản phẩm quý báu cùng với kho tàng tục ngữ, ca dao. Nói cách khác, thành ngữ được sáng tạo ra trên quá trình sinh hoạt xã hội quần chúng. Vì thế chúng, như đã nói ở trên, thường xuất hiện trong môi trường dân dã. Tất cả những đặc điểm trên làm cho thành ngữ trở thành một đối tượng hấp dẫn đối với giới nghiên cứu không chỉ ở ngành ngôn ngữ học mà còn ở nhiều ngành khac như: dân tộc học, văn hóa Nghiên cứu thành ngữ cũng là một công việc có đóng góp rất lớn trong việc miêu tả một ngôn ngữ, so sánh đối chiếu các ngôn ngữ với nhau. Nam Cao trong các tác phẩm của mình cũng đã vận dụng khá thành công thành ngữ trong việc khắc họa hình ảnh nhân vật, miêu tả cuộc sống hiện thực lúc bấy giờ. Nghiên cứu về Nam Cao cùng những tác phẩm của ông từ trước tới nay đã có nhiều công trình nghiên cứu nhưng mới chỉ dừng lại ở việc đưa ra được đặc điểm này hay đặc điểm khác trong việc sử dụng từ ngữ của Nam Cao như: cách sử dụng từ “hắn” trong “Chí Phèo”, tìm hiểu tuyên ngôn nghệ thuật của Nam Cao thông qua hệ thống các nhân vật như Điền (Trăng sáng), Hộ (Đời thừa), Độ (Đôi mắt) Trong khi đó cách sử dụng thành ngữ của tác giả lại chưa được chú ý đúng mức. Đó chính là lí do chúng tôi chọn đề tài cho báo cáo của mình là: Khảo sát các đơn vị thành ngữ trong một số truyện ngắn của Nam Cao giai đoạn 1930-1945

    Đề tài: Khảo sát các đơn vị thành ngữ trong một số truyện ngắn của Nam Cao giai đoạn 1930-1945


    2. Lịch sử vấn đề

    Nghiên cứu thành ngữ trong tiếng Việt nói chung có thể nói đến giai đoạn hiện nay đã thu được nhiều kết quả đáng ghi nhận. Công trình nghiên cứu đầu tiên trong tiếng Việt là “Về tục ngữ và ca dao” của Phạm Quỳnh được công bố năm 1921. Tuy nhiên, đến những năm 60 của thế kỉ XX, việc nghiên cứu thành ngữ mới có được cơ sở khoa học nghiêm túc. Cái mốc quan trọng trong việc nghiên cứu thành ngữ học Việt Nam là việc xuất bản từ điển “Thành ngữ tiếng Việt” (1976) của Nguyễn Lực và Lương Văn Đam. Công trình này tuy còn chưa bao quát được hết tất cả các thành ngữ tiếng Việt nhưng nó đã cung cấp cho các nhà ngôn ngữ học và những ai quan tâm đến vấn đề này một tài liệu bổ ích, có giá trị to lớn. Tiếp đó là năm 1989 xuất bản cuốn “Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam” của Nguyễn Lân và “Kể chuyện về thành ngữ tục ngữ” (1988-1990) do Hoàng Văn Hành chủ biên. Các công trình khác sau đó đều đi sâu vào nghiên cứu với mục đich tìm ra sự khác biệt giữa thành ngữ với các đơn vị khác có liên quan, tức là khu biệt giữa thành ngữ và tục ngữ, giữa thành ngữ với ngữ định danh, giữa thành ngữ với cụm từ tự do. Có thể kể đến các công trình đó như “Góp ý kiến về phân biệt tục ngữ và thành ngữ” (1973) của Cù Đình Tú, “Từ và vốn từ tiếng Việt hiện đại” (1976) của Nguyễn Văn Tu, “Vấn đề cấu tạo từ của tiếng Việt hiện đại” (1976) của Hồ Lê, “Tục ngữ Việt Nam” (1975) của Chu Xuân Diên, Lương Văn Đang, Phương Tri và gần đây nhất là “Phân biệt thành ngữ và tục ngữ bằng mô hình cấu trúc” (2006) của Triều Nguyên. Tuy nhiên, các công trình nêu trên vẫn chưa thực sự thuyết phục được các nhà nghiên cứu. Vậy nên thành ngữ cho đến hiện nay vẫn đang được tiếp cận theo từng khía cạnh khác nhau để có thể lập nên một tiếng nói chung về thành ngữ cho tất cả những ai quan tâm.

    Một trong những khía cạnh nghiên cứu thành ngữ đó chính là nghiên cứu nghệ thuật sử dụng thành ngữ của các nhà văn, nhà thơ - những tác giả lớn. Một loạt những luận văn thạc sĩ, những khóa luận tốt nghiệp cũng như nhiều báo cáo khoa học, nhiều bài viết đăng trên các tạp chí về vấn đề sử dụng thành ngữ của những tên tuổi lớn như chủ tịch Hồ Chí Minh, Nguyên Hồng, Tản Đà, Tô Hoài xuất hiện trong thời gian gần đây.

    Trong khi đó Nam Cao cũng là một đề tài khá hấp dẫn đối với các nhà nghiên cứu, nhiều nhà ngôn ngữ học cũng như những người quan tâm đã dành thời gian khá nhiều cho việc khám phá những đặc điểm nghệ thuật trong tác phẩm của Nam Cao, tức là chưa nghiên cứu một cách toàn diện ngôn ngữ trong tác phẩm của ông. Nói như vậy có nghĩa là cách dùng thành ngữ của Nam Cao chưa được chú ý đúng mực, chưa có một chương trình nào nghiên cứu một cách cặn kẽ vấn đề này.

    3. Ý nghĩa và dự kiến đóng góp của đề tài

    Thông qua việc thống kê, khảo sát những thành ngữ xuất hiện trong hơn 50 truyện ngắn trước cách mạng tháng Tám của Nam Cao chúng tôi hi vọng sẽ góp phần khẳng định sự sáng tạo và những đóng góp to lớn của Nam Cao đối với kho tàng thành ngữ của dân tộc đồng thời, tìm hiểu giá trị phong cách của những đóng góp này. Như vậy ý nghĩa trước hết của đề tài này đó chính là khẳng định them một lần nữa tài năng, sự sáng tạo của Nam Cao trong việc sử dụng ngôn ngữ xây dựng nên những trang văn kiệt tác, cùng với đó là làm rõ thêm giá trị của những thành ngữ mà ông sử dụng. Bài báo cáo khoa học này cũng còn một mong muốn khác đó là bằng việc nghiên cứu, phân tích kĩ những đặc điểm thành ngữ về cấu trúc, ngữ nghĩa, phân loại về loại hình, về phản ánh cách tư duy, về văn hóa ngôn từ trong giao tiếp để chúng tôi có thể cung cấp thêm nhiều thành ngữ hoàn thiện hơn, đầy đủ hơn cho cuốn từ điển thành ngữ sau này.

    Tuy nhiên, do thời gian có hạn cũng như do khả năng của chúng tôi còn chưa cao nên chúng tôi mới chỉ dừng lại ở việc khảo sát thành ngữ trong một số truyện ngắn của Nam Cao trước cách mạng tháng Tám chứ chưa thể khảo sát các đơn vị thành ngữ trong toàn bộ các tác phẩm của ông. Chính vì thế, với đề tài này chúng tôi chỉ hi vọng sẽ đóng góp một phần rất nhỏ trong công việc nghiên cứu thành ngữ ở giai đoạn hiện nay.

    4. Phương pháp nghiên cứu và tư liệu nghiên cứu

    Phương pháp chúng tôi sử dụng để hoàn thành bài báo cáo này chủ yếu là phương pháp thống kê, sau đó so sánh và đối chiếu theo khuôn mẫu của cấu trúc thành ngữ.

    Tư liệu nghiên cứu của chúng tôi là các truyện ngắn của Nam Cao giai đoạn 30-45 in trong cuốn “Nam Cao toàn tập”, Nxb Hội Nhà văn. Cụ thể là 51 truyện ngắn dưới đây:



    1. Tình già

    2. Hai người ăn tết lạ

    3. Nửa đêm

    4. Đón khách

    5. Điếu văn

    6. Lang Rận

    7. Nhìn người ta sung sướng

    8. Một truyện Xú vơ nia

    9. Rình trộm

    10. Rửa hờn

    11. Ở hiền

    12. Tư cách mõ

    13. Mua danh

    14. Thôi, đi về

    15. Trẻ con không biết đói

    16. Làm tổ

    17. Từ ngày mẹ chết

    18. Một bữa no

    19. Quái dị

    20. Trẻ con không được ăn thịt chó

    21. Đòn chồng

    22. Một đám cưới

    23. Con mèo

    24. Lão Hạc

    25. Đôi móng giò

    26. Dì Hảo

    27. Giờ lột xác

    28. Chú Khì

    29. Nghèo

    30. Cái chết của con Mực

    31. Chí Phèo

    32. Đui mù

    33. Hai cái xác

    34. Nguyện vọng

    35.Hai khối óc

    36. Một bà hào hiệp

    37. Cảnh cuối cùng

    38. Những cánh hoa tàn

    39. Cái mặt không chơi được

    40. Những chuyện không muốn viết

    41. Trăng sáng

    42. Mua nhà

    43. Truyện tình

    44. Nhỏ nhen

    45. Đời thừa

    46. Sao lại thế này

    47. Quên điều độ

    48. Cười

    49. Nước mắt

    50. Bài học quét nhà

    51.Xembói




    5. Kết cấu của báo cáo

    Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và tài liệu tham khảo, phần nội dung của báo cáo gồm ba chương:

    Chương I: Giới thiệu chung về Nam Cao - tác giả và tác phẩm.

    Chương II: Phân tích, phân loại thành ngữ trong một số truyện ngắn của Nam Cao.

    Chương III: Các sử dụng thành ngữ của Nam Cao qua các truyện ngắn của ông


    Ngoài ra báo cáo còn bao gồm phần phụ lục: Danh sách thành ngữ và các biến thể của chúng trong một số truyện ngắn của Nam Cao giai đoạn 30-45.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...