Báo Cáo Những vấn đề quản lý tổng hợp vùng bờ Miền Trung và các đề xuất

Thảo luận trong 'Địa Lý' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Integrated Coastal Zone Management in central region of Vietnam – issues and recommendations




    Le Dinh Thanh1 and Nguyen Thi The Nguyen2




    Abstract: Vietnam has a marine area of about one million km2 and a coastal zone of 3260 km length, which includes 29 coastal provinces/cities. The coastal districts of Vietnam encompasses 17% of the whole country area and about 31% of its population are concentrated there, respectively 25 million people in 2005. The marine and coastal zone of Vietnam currently contributes up to 48% of GDP. The coastal zone in the center region of Vietnam is influenced by server natural conditions and limited resources and environment potential. However, the need of socio-economic development in that area is great. Integrated coastal zone management (ICZM) is essential issues in order to develop that area in sustainable way. ICZM is new subject in Vietnam and we do not have much experience in that field. In this paper, the authors would like to present some study results and assessments on the state of development and management in the central coastal zone of Vietnam as well as recommendations for ICZM in order to exploit coastal resources solidly for socio-economic development.




    Những vấn đề quản lý tổng hợp vùng bờ Miền Trung và các đề xuất








    Tóm tắt: Việt Nam có vùng biển rộng khoảng 1 triệu km2 và bờ biển dài 3260 km với 29 tỉnh và thành phố tiếp giáp với biển. Tổng diện tích các huyện ven biển chiếm 17% diện tích của cả nước với dân số năm 2005 khoảng 25 triệu người (chiếm 31% dân số cả nước). Hiện nay vùng biển và ven biển Việt Nam đóng góp tới hơn 48% GDP của cả nước. Ven biển Miền Trung với điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, tiềm năng tài nguyên và môi trường hạn chế trong khi nhu cầu phát triển kinh tế xã hội là rất lớn. Vì vậy vấn đề quản lý tổng hợp vùng bờ (QLTHVB) cho khu vực này nhằm phát triển kinh tế, xã hội hiệu quả và bền vững là rất cấp thiết. Đây là vấn đề mới đối với Việt Nam, chúng ta chưa có kinh nghiệm trong lĩnh vực này. Trong bài báo này các tác giả đưa ra một số kết quả nghiên cứu và đánh giá hiện trạng quản lý và khai thác vùng ven biển Miền Trung Việt Nam cùng các đề xuất cho QLTHVB nhằm khai thác bền vững các nguồn tài nguyên phục vụ phát triển kinh tế, xã hội.




    1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội ven biển Miền Trung




    1.1 Điều kiện tự nhiên và tài nguyên


    Khu vực duyên hải Miền Trung (từ Thanh Hoá đến Bình Thuận) có địa hình hẹp và dốc, độ dốc thấp dần từ tây sang đông. Trong khu vực có tới 22 hệ thống sông chính đổ ra biển Đông, hầu như mỗi tỉnh đều có ít nhất một con sông là nguồn nước của địa phương mình. Tất cả các hệ thống sông của khu vực này đều có những đặc điểm là diện tích lưu vực gần như nằm trọn trong nước, độ dốc lưu vực và lòng sông khá lớn, ngắn, hẹp, dốc, bụng chứa






    1 A/Prof., Dr.; Water Resources University; 175 Tay Son, Dong Da, Hanoi, Vietnam; E-mail: <a class="__cf_email__" href="http://www.cloudflare.com/email-protection" data-cfemail="167a72627e77787e5661646338737263386078">[email protected]<script type="text/javascript">
    (function(){try{var s,a,i,j,r,c,l,b=document.getElementsByTagName("script");l=b[b.length-1].previousSibling;a=l.getAttribute(data-cfemail);if(a){s=;r=parseInt(a.substr(0,2),16);for(j=2;a.length-j;j+=2){c=parseInt(a.substr(j,2),16)^r;s+=String.fromCharCode(c);}s=document.createTextNode(s);l.parentNode.replaceChild(s,l);}}catch(e){}})();

    2 Faculty of Marine and Coastal Engineering, Water Resources University; E-mail: <a class="__cf_email__" href="http://www.cloudflare.com/email-protection" data-cfemail="d9b7beaca0bcb7f7b7f7ad99aeabacf7bcbdacf7afb7">[email protected]<script type="text/javascript">
    (function(){try{var s,a,i,j,r,c,l,b=document.getElementsByTagName("script");l=b[b.length-1].previousSibling;a=l.getAttribute(data-cfemail);if(a){s=;r=parseInt(a.substr(0,2),16);for(j=2;a.length-j;j+=2){c=parseInt(a.substr(j,2),16)^r;s+=String.fromCharCode(c);}s=document.createTextNode(s);l.parentNode.replaceChild(s,l);}}catch(e){}})();




    nhỏ; dòng chảy thường có 3 mùa trong năm (lũ, cạn, lũ tiểu mãn) và cần có đê ngăn triều mặn; và các sông thường chảy đan nối nhau thành một mạng lưới, hay một hệ thống sông.


    Do điều kiện địa hình, địa mạo nên bờ biển Miền Trung có nhiều cửa sông (trung bình 10km có một cửa sông), chúng thường di động trên một đoạn 5-10 km; nhiều đầm phá, bàu nước chạy song song với bờ biển. Sự tương tác lẫn nhau giữa sông và biển tạo một môi trường năng động nhưng cũng có khu vực đối mặt với xói mòn và trầm tích bởi chế độ thuỷ triều và dòng chảy sông, dòng thuỷ triều và điều kiện địa lý của các khu vực ven biển.


    Tài nguyên đất vùng ven biển Miền Trung


    Có hai nguồn tài nguyên đất vùng ven biển Miền Trung đặc biệt cần được chú trọng trong sự phát triển và quản lý đó là:


    i) Các đụn cát và các khu vực đất ngập mặn thấp, chủ yếu là các vùng đất ngập nước. Các đụn cát chủ yếu phân bố ở Quảng Bình, Quảng Trị và một số ở Quảng Nam. Các đụn cát rất khó khăn cho sự phát triển kinh tế xã hội và môi trường. Thừa Thiên Huế có khoảng
    33.400 ha đất cát (ở Phú Bài, Hương Điền) hay Quảng Trị đất cát chiếm 22.500 ha. Tuy nhiên, một số nơi như Quảng Trị đã bắt đầu các nghiên cứu để nâng cao điều kiện sống và môi trường của khu vực đất cát (khoảng 5000 ha), hay ở Nghệ An dải đất cát từ Cửa Lò tới Cửa Hội đã được dùng cho mục tiêu du lịch.


    ii) Các vùng đầm lầy và đất ngập nước ở những nơi thấp dọc theo bờ biển và cửa sông, riêng phá Tam Giang - Cầu Hai ở Thừa Thiên Huế chiếm khoảng 20.000 ha hay ở Quảng Bình có khoảng 5.000 ha đầm lầy và phá nước. Nghệ An cũng có tổng diện tích chịu ảnh hưởng của bão, thủy triều, và nước mặn tới gần 29.400 ha.


    Tài nguyên nước ven biển Miền Trung


    Tài nguyên nước ven biển Miền Trung phân bố không đều theo không gian, lượng mưa trung bình nhiều năm từ 1000 mm (Ninh Thuận) đến khoảng 2600 – 2700 mm (Huế, Hà Tĩnh). Nước mặt khu vực Miền Trung này có ba mùa trong năm: mùa lũ, mùa khô và mùa lũ sớm (hay lũ tiểu mãn). Lượng nước trong mùa lũ chiếm 80 – 85% lượng nước cả năm dẫn đến hạn hán và lụt lội nghiêm trọng. Tổng lượng nước ngầm khai thác ở vùng ven biển Miền Trung khoảng 2 tỷ m3/năm, có tới 78 nguồn nước khoáng và nước nóng ở các tỉnh ven biển Miền Trung.


    Tài nguyên biển ven biển Miền Trung


    Ngoài các nguồn tài nguyên biển với các nguồn khoáng sản, dầu khí thì dọc bờ biển Miền Trung có các hệ sinh thái giá trị và điển hình như các cửa sông, rừng ngập mặn, đầm lầy và các rặng san hô. Các cửa sông chính sông Hương của Thừa Thiên Huế, sông Thu Bồn của Đà Nẵng, Quang Nam,


    Hiện nay các khu vực ven biển và tài nguyên Miền Trung có ba mối nguy cơ lớn là xâm nhập nước mặn; xòi mòn bờ biển và trầm tích; và phát triển kinh tế, xã hội không kiểm soát được.




    1.2 Kinh tế, xã hội ven biển Miền Trung


    Ven biển Miền Trung (Thanh Hoá đến Bình Thuận) gồm 15 tỉnh và thành phố với tổng diện tích tự nhiên 84.560 km2, dân số gần 19 triệu người. Mật độ dân số trên 200 người/km2, thấp hơn vùng biển Bắc Bộ (khoảng 1000 người/km2) và Nam Bộ (khoảng 600 nười/km2), có tới 50% dân số trong độ tuổi lao động nhưng trình độ văn hoá thấp và thường xuyên thiếu việc làm. Theo Nghị định 106/2004/QĐ-TTg, Chính phủ Việt Nam đã



    xác định khu vực ven biển Miền Trung có 133 xã nghèo thuộc 12 tỉnh (Thanh Hoá: 18 xã, Nghệ An: 8, Hà Tĩnh: 27, Quảng Bình: 10, Quảng Trị: 5, Thừa Thiên-Huế: 22, Quảng Nam: 13, Quảng Ngãi: 2, Bình Định: 13, Phú Yên: 3, Ninh Thuận: 3, và Bình Thuận: 9).


    Kinh tế ven biển Miền Trung chủ yếu là nông nghiệp lúa nước và thủy sản. Công nghiệp vẫn còn chưa tương xứng với tiềm năng của các vùng ven biển, thương mại và du lịch còn thấp. Những năm gần đây, cơ cấu kinh tế ở các vùng ven biển có nhiều thay đổi, gia tăng thuỷ sản đánh bắt và nuôi trồng thuỷ hải sản, phát triển hoạt động công nghiệp và dịch vụ. Cơ sở hạ tầng được xây dựng như cảng biển, khu nuôi tôm công nghiệp và bắt đầu khai thác tiềm năng vùng ven biển.


    Các nguồn tài nguyên sinh học ở các vùng ven biển rất đa dạng nhưng đến nay mới chỉ được sử dụng trong các ngành nông, lâm, ngư nghiệp. Đánh bắt cá ven bờ đóng góp đáng kể cho kinh tế địa phương, tuy nhiên ngư dân vẫn còn dùng các biện pháp đánh bắt không hợp pháp dẫn đến cạn kiệt nguồn tài nguyên cá ven bờ.




    2. Thực trạng quản lý, khai thác ven biển Miền Trung




    2.1 Những thách thức đối với việc quản lý vùng ven biển Miền Trung


    1) Phát triển kinh tế và đô thị hoá nhanh chóng dẫn đến gia tăng nhu cầu nước và ô nhiễm nước ngày càng nghiêm trọng. Một loạt những vấn đề phức tạp cần giải quyết như thiếu nước ngọt vào mùa khô do nhiễm nước mặn, phát triển nuôi trồng thuỷ sản gây ô nhiễm do khai thác nước ngầm quá mức,


    2) Khai thác đánh bắt thủy hải sản dùng chất độc và thuốc nổ đe doạ 85% các rặng san hô và không quan tâm đến bảo vệ tính đa dạng sinh học của các nguồn tài nguyên biển và ven bờ.


    3) Năng lực về quản lý vùng ven biển yếu và thiếu nghiêm trọng nhân lực có trình độ trong lĩnh vực này mặc dù những năm gần đây một số tỉnh đã có dự án “Quản lý tổng hợp vùng bờ - ICZM” hỗ trợ.


    Việc khai thác tài nguyên và phát triển kinh tế xã hội của vùng ven biển Miền Trung đã dẫn tới những vấn đề môi trường sau


    - Mật độ dân số ở ven biển Miền Trung khá cao và ngành kinh tế chính vẫn là nông nghiệp. Hiện nay, việc sử dụng phân bón hoá học và hoá chất bảo vệ thực vật, kể cả loại hoá chất cấm sử dụng khá phổ biến (mỗi ha lúa cần sử dụng 63 - 80 kg phân bón, 1,2 - 2,3 kg hoá chất bảo vệ thực vật).


    - Rừng bị tàn phá làm suy thoái và cạn kiệt dòng chảy mùa cạn ở hạ lưu dẫn đến hậu quả môi trường vùng ven biển như suy thoái hệ sinh thái, giảm nguồn lợi thuỷ sản, thay đổi vận chuyển bùn cát của sông, nhiễm mặn và suy giảm chất lượng nước,


    - Hệ thống các công trình thủy lợi làm thay đổi sâu sắc đến chế độ dòng chảy và bùn cát gây tác động ngập lụt, xói lở, bồi lắng, xâm nhập mặn, Phát triển các khu công nghiệp và đô thị tập trung như ở Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Thanh Hoá, .đã và đang gây ô nhiễm môi trường vùng ven biển.


    - Thiên tai thường xuyên xảy ra ở ven biển Miền Trung, trong đó chủ yếu là bão, lũ, hạn hán đã gây ra nhiều thiệt hại về người và của, gây sạt lở, bồi lấp các vùng cửa sông, bờ biển nhiều nơi như cửa Tư Hiền (Thừa Thiên Huế), cửa Mỹ á (Quảng Ngãi) hay cửa Đà Rằng (Phú Yên),
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...