Luận Văn Những vấn đề pháp lý về phá sản doanh nghiệp

Thảo luận trong 'Chưa Phân Loại' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Những vấn đề pháp lý về phá sản doanh nghiệp(58 trang)


    LỜI NÓI ĐẦU

    Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã khẳng định là “Xoá bỏ tập trung quan liêu, bao cấp, xây dựng cơ chế mới phù hợp với quy luật khách quan và với trình độ phát triển của nền kinh tế”.
    Tại Điều 15, Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã khẳng định:“ Nhà nước phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
    Sự ra đời một cơ chế mới kéo theo sự phát triển của nhiều loại hình doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Nhà nước xoá bỏ bao cấp, các doanh nghiệp phải tự hạch toán lo liệu mọi hoạt động kinh doanh của mình với sự cạnh tranh khắc nghiệt, với những biến động của nền kinh tế thị trường Luật phá sản ra đời là một hệ quả tất yếu của quá trình đổi mới đó.
    Luật phá sản được Quốc hội thông qua ngày 30/12/1993 và có hiệu lực thi hành từ 01/7/1994. Luật ban hành nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp. Thực tiễn áp dụng Luật phá sản những năm qua góp phần tích cực vào việc sắp xếp lại hệ thống doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Tuy vậy trong quá trình vận dụng các quy định của pháp luật để giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp, đã bộc lộ khá nhiều vướng mắc, gây không ít khó khăn cho những người thực thi pháp luật. Một trong những nguyên nhân đó là Luật phá sản doanh nghiệp của nước ta chưa thật sự hoàn thiện, các văn bản hướng dẫn chưa đầy đủ, đảm bảo để giải quyết vấn đề nảy sinh trong thực tiễn. Nhằm góp phần hạn chế thiếu sót với mong muốn tìm hiểu sâu hơn về phá sản và pháp luật phá sản.
    Vì vậy, em đã chọn đề tài “Những vấn đề pháp lý về phá sản doanh nghiệp”. Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề sau:



    Chương I: Phá sản doanh nghiệp và pháp luật về phá sản doanh nghiệp.
    Chương II: Những vấn đề pháp lý về phá sản doanh nghiệp.
    Chương III: Thực trạng thi hành Luật phá sản doanh nghiệp và những kiến nghị nhằm hoàn thiện Luật phá sản doangh nghiệp Việt Nam.
    Đây là một vấn đề còn mới mẻ, tài liệu tham khảo ít nhưng em đã cố gắng sử dụng và kết hợp các phương pháp nghiên cứu khác nhau. Tuy nhiên với trình độ còn hạn chế, kinh nghiệm nghiên cứu chưa nhiều nên không tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế nhất định. Kính mong sự chỉ dẫn và đóng góp của thầy cô giáo và tất cả bạn bè đã giúp em tìm ra những nhược điểm của đề tài.

























    CHƯƠNG I

    PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP VÀ PHÁP LUẬT

    PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP


    I.Phá sản doanh nghiệp:

    1. Sự ra đời của khái niệm phá sản và phá sản doanh nghiệp:

    Khi có sự cạnh tranh gay gắt giữa các chủ thể kinh doanh thì sự phát sinh phá sản là tất yếu, doanh nghiệp nào muốn tồn tại và phát triển thì phải đủ sức cạnh tranh với những cơ sở khác. Đòi hỏi này làm xuất hiện nhiều doanh nghiệp có bản lĩnh vượt lên nắm bắt các cơ hội chiếm lĩnh thị trường. Song bên cạnh đó là một bộ phận không nhỏ những doanh nghiệp yếu kém, làm ăn thua lỗ, nợ chồng chất mất khả năng thanh toán nợ đúng hạn; về thực chất đã lâm vào tình trạng phá sản.
    Như vậy phá sản là hiện tượng khó tránh khỏi trong nền kinh tế thị trường và nó cũng không tồn taị trong cơ chế kế hoạch hoá tập chung, bởi vì trong điều kiện có bao cấp vấn đề cạnh tranh giữa các doanh nghiệp không bao giờ được đặt ra. Trước đây chúng ta thường phát động phong trào “Thi đua xã hội chủ nghĩa” song đây cũng chỉ là biện pháp khuyến khích đơn thuần không bắt buộc về hậu quả vật chất.
    Trên thế giới phá sản xuất hiện rất sớm lịch sử đã ghi nhận phá sản được khai sinh từ thời cổ đại La Mã, danh từ Bankrupcy hay Baqueroute tức phá sản bắt nguồn từ chữ Ban Rotta của La Mã, có nghĩa là “chiếc ghế bị gãy”. Thời đó các thương gia của một thành phố thường hợp lại, người nào mất khả năng thanh toán thường bị bắt làm nô lệ để bán khấu trừ nợ hay phải bỏ trốn, do đó mất luôn quyền tham gia Đại hội các Thương gia và chiếc ghế dành cho người đó bị đem ra khỏi nơi hội họp. Tài sản của con nợ bị các chủ nợ xâu xé, giành

    nợ của mỗi người. Giải pháp này được các chủ nợ đồng tình và cải tiến nâng lên thành Luật phá sản thời cổ đại La Mã.
    Tại Châu Âu, thời Trung cổ, các quốc gia Châu Âu cũng ban hành Luật phá sản, lúc đầu chỉ áp dụng trong lĩnh vực thương nghiệp, sau đó được mở rộng ra nhiều lĩnh vực kinh doanh khác. Lúc đầu Luật phá sản có tính cách hình sự rõ rệt nhằm trừng trị các thương gia. Luật phá sản của Anh do vua Henry VIII ký vào năm 1542 đã đưa các con nợ vào trại giam. Tại Pháp các thương gia đã gian lận trong việc cung cấp hàng hoá cho quân đội gây ra một cuộc khủng hoảng tài chính làm nhiều thương gia bị khánh tận, chính Napoleon đã soạn thảo gấp bộ Luật thương mại, trong đó những tội danh phá sản được dự liệu ngay trong bộ luật.
    Sự gắt gao của Luật phá sản đem lại thiệt hại cho chủ nợ, vì người thiếu nợ trước viễn cảnh của hình phạt đã cố ý che dấu tình trạng mất khả năng thanh toán của mình, cuối cùng khi không che dấu được thì bỏ trốn.
    Do đó pháp luật phá sản sau này sửa đổi nhiều theo chiều hướng khoan dung hơn. Coi thương gia phá sản như một kẻ sa cơ thất thế nên đã có những quy định bảo vệ hợp pháp của cả con nợ lẫn chủ nợ. Chính vì vậy pháp chế phá sản hiện nay trên thế giới đều có xu hướng chung là cố gắng có thời gian để hồi vực lại doanh nghiệp mắc nợ.
    Xuất phát từ điều kiện, hoàn cảnh cụ thể mỗi nước, mỗi quốc gia đều có Luật phá sản riêng với các nội dung được quy định phù hợp với đặc điểm của nước mình như: Phá sản Cộng hoà Liên bang Đức (1877), của Anh (1986), của Thuỵ Điển (1987), của Nam Tư (1989), của Nga (1992), của Singapore (1995).
    Ở Việt Nam, dưới thời Pháp thuộc, pháp chế thương mại hoàn toàn du nhập từ bộ Luật thương mại của Pháp, năm 1864, triều đình Huế ban hành bộ Luật thương mại áp dụng trên lãnh thổ Trung kỳ 1944. Pháp luật phá sản áp dụng dưới chính quyền Sài Gòn cũ mang nặng dấu ấn pháp luật của người Pháp (Luật thương mại Pháp và Luật thương mại Trung phần), đến năm 1972 mới có Luật thương mại riêng, trong đó quy định về định chế khánh tận và tư pháp thanh toán, tuy nhiên việc áp dụng còn rất hạn chế.
    Tại miền Bắc từ 1954 – 1975, vừa đấu tranh chống ngoại xâm nhằm thống nhất đất nước, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội, tuy giai đoạn đầu còn duy trì hình thức công ty hợp danh, nhưng qua cải tạo xã hội chủ nghĩa còn hai thành phần kinh tế chủ yếu là sở hữu toàn dân và sở hưũ tập thể được quản lý theo cơ chế tập trung và bao cấp của Nhà nước, nên pháp luật lúc đó không có chế định phá sản.
    Sau khi đất nước thống nhất nền kinh tế vẫn duy trì cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp nên cũng không có chế định về phá sản. Sau Đại hội Đảng VI nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường với cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Thừa nhận phá sản là hậu quả tất yếu của thị trường và phải được điều chỉnh bằng pháp luật. Ngày 30/12/1993 tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội khoá IX đã thông qua Luật phá sản doanh nghiệp Việt Nam.

    2. Khái niệm phá sản doanh nghiệp :

    Ở nhiều nước hiện nay, do đặc điểm tình hình kinh tế xã hội của mỗi nước mà mỗi quốc gia có các quan niệm rộng hẹp khác nhau về khái niệm phá sản.
    & Luật phá sản Australia năm 1966 quy định doanh nghiệp hay cá nhân bị tuyên bố phá sản là doanh nghiệp không thể thanh toán được các khoản nợ của mình và đang ở trong tình trạng tài chính bi đát khiến không có khả năng thanh toán nợ đến hạn.
    & Luật phá sản Trung Quốc thi hành 1986, tại Điều 3 đã quy định: “Xí nghiệp thua lỗ nghiêm trọng vì quản lý kinh doanh không giỏi, không thể thanh toán các món nợ đến hạn, bị tuyên bố phá sản
    & Pháp luật phá sản Pháp trước 1985 để định nghĩa một doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ. Toà án thường nhận xét thấy tình trạng tài chính của doanh nghiệp đó đã lâm vào tình trạng nguy hại không có cách nào cứu chữa được. Vì vậy dù cho tài sản của doanh nghiệp có đủ để thanh toán tất cả các khoản nợ nhưng không có khả năng trả các món nợ chắc chắn đã đến hạn thì cũng bị coi là lâm vào tình trạng phá sản. Nói cách khác khi tất cả tiền và tài sản sẵn có của doanh nghiệp không đủ để trả nợ đến hạn thì doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ.
    & Luật phá sản cũ của Singapore năm 1985 quy đinh, đơn yêu cầu tuyên bố phá sản dựa trên một số tình trạng đặc biệt như chuyển tài sản doanh nghiệp cho người khác hưởng lời, có tạo ra các khoản chi mà pháp luật coi là bất hợp lý khi doanh nghiệp bị đề nghị phá sản, cố ý lẩn tránh hoặc trì hoãn nợ bằng cách bỏ trốn khỏi Singapore hoặc nằm lỳ ở nước ngoài, bỏ trốn khỏi nhà hoặc đóng cửa nhà, cửa hiệu, không kinh doanh để giấu mặt, con nợ bị toà án xét xử bằng cách tịch thu tài sản.
    & Luật phá sản Vương quốc Anh quy định một doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ khi có một chủ nợ số tiền trên 50 bảng đã:
    - Gửi đơn đòi nợ sau 3 tuần doanh nghiệp đã không trả được hoặc không thương lượng xong với chủ nợ hay không tìm được các biện pháp bảo đảm cho số nợ.
    - Có án lệnh hoặc doanh nghiệp trả nợ nhưng không thi hành được.
    - Khiếu nại số nợ không xong.
    & Tại Việt Nam khái niệm phá sản là vấn đề được bàn cãi rất nhiều trong quá trình soạn thảo luật doanh nghiệp. Có quan điểm cho rằng chỉ định nghĩa: “Doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là doanh nghiệp mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn” quan điểm này có phần máy móc, phải có quy định về định lượng các khoản nợ không có khả năng thanh toán; quan điểm khác cho rằng ngoài mất khả năng thanh toán và còn phải mất khả năng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; có quan điểm cho rằng tình trạng phá sản là tình trạng doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc bị thua lỗ trong hoạt động sản xuất kinh doanh đến mức tại thời điểm nào đó, tổng số nợ của doanh nghiệp lớn hơn tổng số giá trị tài sản của nó.
    Những quan điểm trên đây có những quan điểm không phù hợp với điều kiện nước ta. Nếu lấy tiêu chí tổng số nợ đến hạn lớn hơn tổng số tài sản doanh nghiệp có mà tuyên bố phá sản thì sẽ tuyên bố phá sản tràn lan vì những doanh nghiệp rơi vào tình trạng này không nhất thiết là không hồi vực được, thông qua các biện pháp khất nợ, hoãn nợ, cải tiến quản lý sản xuất- kinh doanh, một doanh nghiệp có thể hồi vực được để vừa có thể thanh toán nợ và phát triển bình thường.
    Nếu lấy tiêu chí doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ đến hạn thì khá trìu tượng, vì không thanh toán được các khoản nợ đến hạn có thể chỉ có tính chất nhất thời trong một giai đoạn ngắn nào đó, quan niệm này chỉ bảo vệ quyền lợi của các chủ nợ, nhưng quyền lợi của doanh nghiệp mắc nợ không được bảo đảm.
    Ngược lại nếu lấy tiêu chí bằng cách quy định về định lượng các khoản nợ không có khả năng thanh toán, trên thực tế sẽ khó áp dụng vì phụ thuộc số lượng nợ nhiều hay ít, phải so với cả quy mô, quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Quy định tiêu chí này sẽ hạn chế quyền đệ đơn của các chủ nợ vì chủ nợ khó biết được tổng số mất khả năng thanh toán của con nợ là bao nhiêu.
    Ở Anh, về vấn đề này đã phân biệt hai khái niệm khác nhau, đó là không có khả năng chi trả và phá sản. Doanh nghiệp không có khả năng chi trả là việc doanh nghiệp không có khả năng thoả mãn yêu cầu thanh toán nợ đến hạn cho các chủ nợ bằng tài sản hiện có. Việc doanh nghiệp không đủ khả năng chi trả hoàn toàn không phải lúc nào cũng có nghĩa là doanh nghiệp không đủ tài sản chi trả, vì có thể doanh nghiệp không đủ tài sản để chi trả nhưng bằng các khoản vay, doanh nghiệp có thể còn khả năng chi trả. Doanh nghiệp có thể không có khả năng chi trả nhưng không bị coi là phá sản. Doanh nghiệp không có khả năng chi trả không mang tính tạm thời mới là cơ sở cho việc tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
    Trên cơ sở tham khảo Luật phá sản của các nước vận dụng vào hoàn cảnh Việt Nam, thích hợp hơn cả là khái niệm phá sản doanh nghiệp căn cứ hai điều kiện:
    & Điều kiện thứ nhất: Doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ đến hạn.
    & Điều kiện thứ hai: Hiện tượng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn không phải là hiện tượng nhất thời mà đã lâm vào tình trạng trầm trọng.
    Với ý nghĩa này, Luật phá sản doanh nghiệp Việt Nam đã được Quốc hội thông qua ngày 30/12/1993, có hiệu lực thi hành từ 01/07/1994 đưa ra khái niệm: “Doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc bị thua lỗ trong hoạt động sản xuất kinh doanh sau khi đã áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết mà vẫn mất khả năng thanh toán nợ đến hạn”. (Điều 2 Luật phá sản doanh nghiệp).

    3. Dấu hiệu đánh giá doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản:

    Phá sản là một hậu quả tất yếu của nền kinh tế thị trường, pháp luật Việt Nam đã phản ánh hiện tượng phá sản doanh nghiệp trong Điều 17 Luật doanh nghiệp tư nhân và Điều 24 Luật công ty ban hành cùng ngày 21/12/1990 (chưa sửa đổi) đã nêu: Luật công ty (hay Luật doanh nghiệp tư nhân) “gặp khó khăn hoặc bị thua lỗ trong hoạt động sản xuất kinh doanh đến mức tại một thời điểm tổng số trị giá các tài sản còn lại của công ty (hay doanh nghiệp tư nhân) lâm vào tình trạng phá sản”.
    Nhưng sau ngày 30/12/1990, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Luật phá sản doanh nghiệp, thì định nghĩa trên đã được sửa đổi. Điều 2 Luật phá sản doanh nghiệp năm 1994 đã quy định rằng: “Doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc bị thua lỗ trong hoạt động kinh doanh sau khi đã áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết mà vẫn mất khả năng thanh toán nợ đến hạn”.
    Như vậy cốt lõi của vấn đề phá sản là: “mất khả năng thanh toán nợ đến hạn” và khi xem xét trong luật ta thấy các dấu hiệu đã nêu ở Điều 2 Luật phá sản doanh nghiệp còn có các dấu hiệu sau đây:
    1. Ba mươi ngày sau khi nhận được giấy đòi nợ đến hạn mà doanh nghiệp vẫn chưa thanh toán (Điều7 Luật phá sản doanh nghiệp).
    2. Doanh nghiệp không trả được lương cho người lao động 3 tháng liên tiếp (Điều 8 Luật phá sản doanh nghiệp).
    Tuy nhiên việc định nghĩa các số nợ đến hạn còn là điều khó khăn, chẳng hạn nếu doanh nghiệp mắc nợ vì vi phạm một điều kiện nào đó với chủ nợ nên khi chưa đến hạn thì xếp nợ này là loại đến hạn hay không? Bản án Toà đã cho phép doanh nghiệp mắc nợ được trả nợ làm nhiều phân kỳ, việc không trả đúng hạn một phần nợ hay phân kỳ thứ nhất có làm cho toàn thể khoản nợ phải trả trở thành nợ đến hạn hay không?
    Đối với trường hợp nợ lương của người lao động. Luật không nói rõ trường hợp doanh nghiệp chỉ có khả năng trả một phần lương cho người lao động trong ba tháng liên tiếp thì giải quyết ra sao, điều này được giải thích tại Khoản 1 Điều 3 Nghị định 189/CP ngày 23/12/1994 của Chính phủ, hướng dẫn thi hành Luật phá sản doanh nghiệp, là doanh nghiệp dù chỉ trả một phần lương trong ba tháng liên tiếp vẫn bị coi là mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Dù Nghị định chỉ nói đến khoản nợ lương, tuy nhiên cần phải hiểu các khoản nợ, ngoài lương ra thì các khoản mang tính phụ cấp kể cả các lợi ích khác như bảo hiểm xã hội, trợ cấp thôi việc, tiền thưởng đã được quy định trong thoả ước lao động đều được xem như là nợ lương.
    Cũng theo Nghị định 189/CP, điều quan trọng cần phải xem xét là việc không trả đủ lương cho người lao động chỉ được xem là dấu hiệu doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản khi việc không trả đủ lương là hậu quả của việc doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ trong hai năm liên tiếp (Điều 3 Nghị đinh 189/CP).
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...