NỘI DUNG I- Những vấn đề lý luận về nguyên tắc tự định đoạt của đương sự trong TTDS 1- Khái niệm nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS Nguyên tắc không phải là cái tự nhiên sinh ra mà là kết quả của cả một quá trình phát triển và thích ứng với các điều kiện khách quan. Mặc dù từ điển tiếng việt có định nghĩa nguyên tắc là “điều cơ bản đã định ra cần hải tuân theo trong 1 loạt việc làm” nhưng nguyên tắc đó sẽ nhanh chóng bị thay đổi nếu nguyên tắc đó không phù hợp với quy luật khách quan. Bởi vậy, nguyên tắc phải là kết quả của quá trình nhận thức nghiên cứu thực tế khách quan. Trong mỗi lĩnh vực khác nhau có những nguyên tắc khác nhau, nó trở thành những yêu cầu bắt buộc, chỉ đạo trong xây dựng và thực hiện lĩnh vực mà nó điều chỉnh. Trong phương diện pháp luật nó chung và pháp luật TTDS nói riêng có quy định: “ Nguyên tắc của luật TTDS Việt Nam là những tư tưởng pháp lý chỉ đạo, định hướng cho việc xây dựng và thực hiện pháp luật TTDS và ghi nhận trong các văn bản pháp luật.” Nội dung nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự có cội nguồn từ các nguyên tắc trong giao lưu dân sự. Trong đó, các quan hệ dân sự được xác lập, thay đổi hoặc chấm đứt trên cơ sở tự nguyện, tự thỏa thuận, tự chịu trách nhiệm và bình đẳng giữa các chủ thể. Nhưng sự tự định đoạt của đương sự không phải được thể hiện 1 cách tùy tiện mà phải thự hiện trong khuiin khổ theo quy định của pháp luật. Có như vậy mới đảm bảo tính hợp pháp và hợp hiến, tạo tiền để cho quyền của đương sự được đảm bảo. Cụ thể, nội dung nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự được thể hiện trong BL TTDS như sau:”1. Ðương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự. Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó.2. Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, các đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi các yêu cầu của mình hoặc thỏa thuận với nhau một cách tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội.”( Điều 5 BLTTDS 2004). Như vậy quyền tự định đoạt của đương sự là quyền tự quyết định tham gia tố tụng dân sự, tự quyết dịnh quyền và lợi ích của họ trong tố tụng dân theo quy định của pháp luật và trách nhiệm của tòa án giải quyết trong phạm vi yêu cầu của đương sự trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. ***** 3.Một số kiến nghị nhằm bảo đảm việc thực hiện nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS. Để pháp luật dân sự nói chung và BLTTDS 2004 nói riêng phát huy được hơn nữa vai trò của mình cũng như quyền tự định đoạt của đương sự, cần có sự sửa đổi, bổ sung mới để phù hợp với quan hệ pháp luật dân sự. Sau khi tham khảo một số bài viết cũng như nhận xét của bản thân em xin đưa ra một số điểm nên sửa đổi sau: Một là quy định rõ thời điểm bị đơn đưa ra yêu cầu phản tố. Cụ thể như sau: “Bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố trước khi Toà án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm”.Ngoài ra, nên quy đinh thời điểm để người có quyền và lợi ích liên quan đưa ra yêu cầu độc lập trước khi Toà án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm. Điều này sẽ góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hơp pháp của bị đơn và người có quyền và nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập. Giúp việc xét xử diễn ra thuận lợi, nhanh và chính xác. Hai là quy định rõ sự khác biệt về địa vị tố tụng của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập so với người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập bởi khi tham gia tố tụng với những quyền và nghĩa vụ tố tụng khác nhau thì vai trò của các chủ thể sẽ khác nhau. Ba là, nên quy định lại việc rút đơn của nguyên đơn trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm không cần có sự đồng ý của nguyên đơn. Và nếu bị đơn thấy việc nguyên đơn có yêu cầu khởi kiện rồi rút lại đơn khởi kiện mà gây thiệt hạo cho họ về danh dự, nhân phảm hoặc với tài sản thì họ có quyền khởi kiện nguyên đơn bồi thường thiệt hại. Bốn là cần có các quy định cụ thể về trình tự, thủ tục tiến hành hòa giải, tạo cơ sở cho việc hòa giải diễn ra 1 cách thuận lợi nhất. VD: “1. Trước khi tiến hành hoà giải, Thư ký Toà án báo cáo Thẩm phán về sự có mặt, vắng mặt của những người tham gia phiên hoà giải đã được Toà án thông báo. Thẩm phán chủ trì phiên hoà giải kiểm tra lại sự có mặt và căn cước của những người tham gia phiên hoà giải.( 2.) Thẩm phán chủ trì phiên hoà giải theo nội dung hoà giải quy định hòa giả (3.) Các đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự trình bày ý kiến của mình về những nội dung tranh chấp và đề xuất những vấn đề cần hoà giải.(4.) Thẩm phán xác định những vấn đề các bên đã thống nhất, những vấn đề chưa thống nhất và yêu cầu các bên đương sự trình bày bổ sung về những nội dung chưa rõ, chưa thống nhất.(5.) Thẩm phán kết luận về những vấn đề các bên đương sự đã hoà giải thành và vấn đề chưa thống nhất.” Bên cạnh đó cần nâng cao năng lực xét xử của thẩm phán và đẩy mạnh việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật. Nhằm nâng cao chất lượng xét xử và đẩy mạnh hiểu biết pháp luật, nâng cao hiểu biết để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Báo cáo chia làm 3 phần