Tiểu Luận Những vấn đề lý luận về mối quan hệ giữa đầu tư vào tài sản hữu hình và tài sản vô hình

Thảo luận trong 'Đầu Tư' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    I./ Một số vấn đề lý luận chung về đầu tư vào tài sản hữu hình và tài sản vô hình:
    1. Định nghĩa, phân loại và ý nghĩa:
    1.1. Định nghĩa chung về tài sản doanh nghiệp:
    Tài sản: Là một khái niệm pháp lý bao gồm tất cả các quyền, quyền lợi, lợi nhuận có liên quan đến quyền sỏ hữu, bao gồm: quyền sở hữu cá nhân, nghĩa là chủ sở hữu được hưởng những quyền lợi, lợi ích nhất định khi làm chủ sở hữu tài sản đó. (Theo uỷ ban thẩm định giá quốc tế- IVSC)
    Doanh nghiệp: Là một tổ chức được lập ra để tiến hành hoạt động kinh doanh. Tài sản là yếu tố giữ vai trò quyết đinh trong doanh nghiệp để tiến hành các hoạt động trong đầu tư như: sản xuất, mua bán hay dịch vụ nhằm mục đích sinh lời
    Tài sản doanh nghiệp: Là toàn bộ tiềm lực kinh tế của đơn vị, biểu thị cho những lợi ích mà doanh nghiệp thu được trong tương lai hoặc những tiềm năng phục vụ cho hoạt động kinh doanh của đơn vị. Tài sản của doanh nghiệp chính là toàn bộ những tài sản hữu hình và vô hình gắn với lợi ích của doanh nghiệp, quyết định việc mang lại giá trị cho doanh nghiệp trong tương lai và thoả mãn các điều kiện sau:
    - Thuộc quyền kiểm soát lâu dài của đơn vị
    - Có giá trị thực sự đối với doanh nghiệp
    - Có giá trị xác định

    1.2. Phân loại tài sản doanh nghiệp:
    1.2.1. Tài sản hữu hình: (TSHH)
    a) Khái niệm:
    TSHH là những tài sản thuộc sở hữu của doanh nghiệp, xí nghiệp mang thuộc tính vật chất. Ví dụ như: nhà xưởng, máy móc, dụng cụ, thiết bị, nguyên nhiên vật liệu, hay những tài sản trong xây dựng và phát triển, có khả năng mang lại lợi nhuận cho chủ sở hữu một cách trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua sản phẩm được sản xuất ra.
    b) Phân loại:
    Tài sản hữu hình được phân làm 2 loại: Tài sản cố định hữu hình và tài sản lưu động hữu hình
    Tài sản cố định hữu hình: là những tư liệu sản xuất chủ yếu có hình thái vật chất thoả mãn các tiêu chuẩn của tài sản hữu hình, có giá trị lớn và sử dụng lâu dài (lớn hơn mức quy định). Trong quá trình sản xuất kinh doanh hình thái vật chất của tài sản cố định hầu như không thay đổi, còn giá trị giảm dần trong suốt thời gian tồn tại.
    Tài sản cố định hữu hình có các thuộc tính:
    - Có hình thái vật chất cụ thể, có thể lượng hoá và xác định được giá trị.
    - Chắc chắn thu được lợi ích kinh tế trong tương lai từ việc sử dụng tài sản đó vào trong các hoạt động của doanh nghiệp.
    - Nguyên giá tài sản được xác định một cách đáng tin cậy.
    - Tài sản có thời gian sử dụng lâu dài (trên một năm) hoặc có giá trị lớn (từ trên mười triệu đồng).
    Theo hình thái hiện vật, tài sản cố định của nền kinh tế quốc dân được chia làm các loại sau đây:
    - Nhà cửa và vật kiến trúc
    - Máy móc thiết bị
    - Phương tiện vận tải
    - Thiết bị và dụng cụ quản lý
    - Cây lâu năm, súc vật làm việc và súc vật cho sản phẩm
    - Tài sản cố định phúc lợi
    - Tài sản cố định khác
    Tài sản lưu động hữu hình: Là tài sản không nằm trong chu kỳ sử dụng lâu dài của doanh nghiệp và có hình thái vật chất, mang thuộc tính vật chất. Ví dụ như: hàng trong kho, các loại nguyện vật liệu mua về để tích trữ, các sản phẩm gửi bán

    c) Ý nghĩa:
    Tài sản hữu hình có ý nghĩa quyết định đối với nhà máy, xí nghiệp. Nó vừa là nơi sản xuất, vừa là yếu tố tạo nên sản phẩm. Chính vì vậy, tài sản hữu hình là cơ sở để quyết định chất lượng sản phẩm, giá thành sản phẩm và số lượng sản phẩm. Nếu ta liên hệ nhà máy với một con người thì tài sản hữu hình chính là phần xác thịt, nội tạng của con người và đồ ăn thức uống nuôi sống con người hàng ngày (khung của người ứng với máy móc, nguyên liệu ứng với lương thực thực phẩm hàng ngày )
    Nếu không có tài sản hữu hình thì quá trình sản xuất không thể tồn tại. Muốn có hàng hoá con người cần phải sản xuất. Để sản xuất, chúng ta cần có công cụ, địa điểm và các yếu tố cần thiết khác. Nói tóm lại tài sản hữu hình chính là điều kiện để con người tạo ra sản phẩm.
    Chính tài sản hữu hình là nền tảng, nguồn gốc tạo ra tài sản vô hình. Mọi giá trị vô hình đều được tạo nên từ giá trị hữu hình của sản phẩm và đây cũng chính là sản phẩm của quá trình sản xuất phát triển tài sản hữu hình của doanh nghiệp. Như vậy, ta có thể nói tài sản hữu hình đã gián tiếp tạo ra tài sản vô hình, giá trị vô hình.
    Trên thực tế, có nhiều công ty chỉ chuyên bán thương hiệu của mình cho các hãng khác. Đặc biệt trong lĩnh vực thời trang, những hãng nổi tiếng có tầm ảnh hưởng lớn trên phạm vi toàn thế giới (Le’vis, D&G ). Có thể không cần trực tiếp sản xuất ra sản phẩm, nhưng để có được sản phẩm các công ty đó cũng phải có cơ sở sản xuất và cũng cần tới tài sản hữu hình, về bản chất ta thấy nếu quy trụ sở chính của công ty với các cơ sở sản xuất mà nó bán thương hiệu chỉ là một công ty lớn và nhiệm vụ được phân công cho từng bộ phận thì sẽ thấy được thực ra mối quan hệ giữa chúng hoàn toàn là gắn kết.

    1.2.2. Tài sản vô hình:
    a) Khái niệm:
    Tài sản vô hình là những tài sản tự biểu lộ, thể hiện thông qua những đặc điểm kinh tế của chúng. Những tài sản này không có hình thái vật chất nhưng có thể tạo ra được những lợi thế và quyền hạn để mang lại giá trị kinh tế cho người sở hữu nó.
    b) Đặc điểm:
    Tài sản vô hình là những tài sản không mang hình thái cụ thể, chúng ta không thể cầm nắm được. Nó không thể nhìn thấy được, cảm nhận được bằng mùi vị, màu sắc nhưng chúng ta có thể cảm nhận nó bằng trực giác của mình. Mó mang lại những giá trị khác với giá trị sử dụng thông thường. Dường như giá trị của nó gắn cùng với những yếu tố thuộc về tâm lý, vì vậy giá trị của nó cũng do yếu tố tâm lý chi phối phần nào.
    Như vậy, vai trò giá trị của tài sản vô hình của một sản phẩm, hay suy rộng ra là giá trị vô hình của một nhà máy, xí nghiệp phụ thuộc vào đời sống của người dân, thời điểm và ảnh hưởng của phần tài sản vô hình tác động đến bạn trong thời điểm đó và vị thế của bạn trong xã hội.
    Giá trị của tài sản vô hình có liên hệ mật thiết với tính mới của dòng sản phẩm mà công ty sản xuất. Một dòng máy tính mới ra đời và có một tính năng ưu việt về công nghệ vượt xa những sản phẩm trước đó sẽ có giá trị vô hình lớn, mang lại giá trị về thương hiệu, uy tín, vị thế lớn cho hãng sản xuất ra nó. Nhưng khi những hãng đối thủ cũng áp dụng công nghệ mới này thì nó lại phải giảm giá nhanh chóng để cạnh tranh, tránh mất thị phần về tay đối thủ.
    c) Phân loại:
    Theo Uỷ ban Thẩm định giá quốc tế, tài sản vô hình được phân loại như sau:
    - Các quyền: Mọi doanh nghiệp đều có quyền của mình, những quyền này có thể tồn tại theo những điều kiện của một hợp đồng dưới hình thức văn bản hay không bằng văn bản. Giá trị của quyền phụ thuộc vào những lợi ích tài chính mà quyền đó mang lại cho doanh nghiệp.
    - Mối quan hệ giữa các bên: Mọi doanh nghiệp đều phải thiết lập mối quan hệ với các đơn vị,các chủ thể và các cá nhân bên ngoài khác. Mối quan hệ này có thể không thể hiện thành hợp đồng nhưng nó rất quan trọng đối với doanh nghiệp.
    - Các tài sản vô hình lập thành nhóm: Là giá trị vô hình thặng dư còn lại sau khi tất cả tài sản vô hình có thể nhận biết được đã được đánh giá và trừ khỏi tổng tài sản vô hình, thường được gọi là uy tín. Đặc biệt là đối với những công ty đang làm ăn tốt và có lợi thế kinh doanh.
    - Tài sản sở hữu trí tuệ: Là những tài sản vô hình không nằm ở dạng vất chất nhưng chúng có giá trị vì chúng có khả năng sinh ra dòng lợi nhuận trong tương lai. Tài sản sở hữu trí tuệ là loại đặc biệt của tài sản vô hình, nó thường được luật pháp bảo vệ khổi những sự sử dụng trái thẩm quyền của những người khác. Ví dụ như: nhãn hiêu, bản quyền, bằng sáng chế

    2. Đầu tư vào tài sản vô hình và tài sản hữu hình:
    2.1. Đầu tư vào tài sản hữu hình:
    2.1.1. Khái niệm:
    Đầu tư (đầu tư phát triển) là việc chi dùng vốn trong hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm tăng thêm hoặc tạo ra những năng lực sản xuất tạo thêm việc làm và vì mục tiêu phát triển.
    Như vậy, đầu tư vào tài sản hữu hình chính là hoạt động đầu tư vào phần giá trị hữu hình của nhà máy, xí nghiệp nhằm mục đích nâng cao năng suất sản xuất, chất lượng sản phẩm, tiết kiệm chi phí

    2.1.2. Phân loại: Chia làm 2 loại:
    Đầu tư theo chiều rộng: là việc sử dụng vốn để mở rộng về quy mô hoạt động của nhà máy. Ví dụ như mở thêm cơ sở sản xuất mới, mở rộng về quy mô nhà xưởng, số lượng máy móc mà không làm tăng về năng suất ngược lại còn có thể làm giảm năng suất lao động. Người ta gọi đây là đầu tư cơ bản.
    Đầu tư theo chiều sâu: Là hoạt động bỏ vốn vào để tác động trực tiếp đến máy móc, công nghệ, kĩ năng kĩ thuật để làm tăng năng suất của mỗi công nhân tham gia trong quá trình sản xuất. Hay còn gọi là sử dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất.
    a) Đầu tư cơ bản:
    Đầu tư cơ bản: là các hoạt động xây dựng mới, mở rộng, xây dựng lại và khôi phục tài sản cố định trong nền kinh tế quốc dân.
    Vốn đầu tư cơ bản: là số tiền tiết kiệm được sử dụng cho đầu tư tài sản cố định, là chi phí cần thiết để tái sản xuất các hoạt động trên.
    Quy mô vốn đầu tư cơ bản là yếu tố quyết định sự tăng thêm của tài sản cố định trong nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, không phải lúc nào mức tăng tài sản cố định cũng tăng tỷ lệ thuận với mức tăng vốn đầu tư cơ bản bởi vì mức tăng tài sản cố định còn phụ thuộc vào mức độ hoàn thành vốn đầu tư cơ bản.
    Vốn đầu tư cơ bản được tính theo đơn vị giá trị: K = pf
    f : yếu tố của xây lắp và sửa chữa lớn, hiện đại hoá chưa hoàn thành
    p : giá các yếu tố đó.
    Để xác định hiệu quả kinh tế vốn đầu tư cơ bản, ta thông qua chỉ tiêu hiệu suất vốn đầu tư cơ bản ( H[​IMG])
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...