Luận Văn Những vấn đề lý luận cơ bản về phát triển thị trường hàng hóa ở doanh nghiệp thương mại

Thảo luận trong 'Kế Toán - Kiểm Toán' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    170
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG HÀNG HÓA Ở DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI

    CHƯƠNG 1
    NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG
    HÀNG HÓA Ở DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI


    1.1. THỊ TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA THỊ TRƯỜNG HÀNG HÓA.
    1.1.1. Khái niệm về thị trường hàng hóa.
    Thị trường là một phạm trù của kinh tế hàng hóa. Thị trường được nhiều nhà kinh tế định nghĩa khác nhau. Có người coi thị trường là cái chợ, là nơi mua bán hàng hóa. Hội quản trị khoa học Hoa Kỳ coi: "thị trường là tổng hợp các lực lượng và các điều kiện, trong đó người mua và người bán thực hiện các quyết định chuyển hàng hóa và dịch vụ từ người bán sang người mua". Có nhà kinh tế lại quan niệm: "thị trường và lĩnh vực trao đổi mà ở đó người mua và người bán cạnh tranh với nhau để xác định giá cả hàng hóa và dịch vụ", hoặc đơn giản hơn: thị trường là tổng hợp các số cộng của người mua về một sản phẩm hàng hóa hay dịch vụ. Gần đây có nhà kinh tế lại định nghĩa: "thị trường là nơi mua bán hàng hóa, là một quá trình trong đó người mua và người bán một thứ hàng hóa tác động qua lại nhau để xác định giá cả và số lượng hàng, là nơi diễn ra các hoạt động mua bán bằng tiền trong một thời gian và không gian nhất định".
    Các định nghĩa trên đây về thị trường có thể nhấn mạnh ở địa điểm mua bán, vai trò của người mua, người bán hoặc chỉ người mua, coi người mua giữ vai trò quyết định trong thị trường, chứ không phải người bán, mặc dù không có người bán, không có người mua, không có hàng hóa và dịch vụ, không có thoả thuận thanh toán bằng tiền hoặc bằng hàng thì không thể có thị trường, không thể hình thành thị trường. Cho dù thị trường hiện đại, có thể một trong vài yếu tố trên không có mặt trên thị trường thì thị trường vẫn chịu tác động của các yếu tố ấy và thực hiện trao đổi hàng hóa thông qua thị trường. Vì vậy đã nói đến thị trường phải nói đến các yếu tố sau:
    Một là, phải có khách hàng, không nhất thiết phải gắn với địa điểm xác định.
    Hai là, khách hàng phải có nhu cầu chưa được thỏa mãn. Đây chính là cơ sở thúc đẩy khách hàng mua hàng hóa và dịch vụ.
    Ba là, khách hàng phải có khả năng thanh toán, tức là khách hàng phải có khả năng trả tiền để mua hàng.
    1.1.2. Các yếu tố thị trường.
    Các yếu tố của thị trường gồm: cung, cầu và giá cả thị trường.
    Tổng hợp các nhu cầu của khách hàng (người mua) tạo nên cầu về hàng hóa.
    Tổng hợp các nguồn cung ứng sản phẩm cho khách hàng trên thị trường tạo nên cung hàng hóa.
    Sự tương tác giữa cung và cầu, tương tác giữa người mua và người mua, người bán với người bán và người bán với người mua hình thành giá cả thị trường. Giá cả thị trường là một đại lượng biến động do sự tương tác của cung và cầu trên thị trường của một loại hàng hóa, ở địa điểm và thời điểm cụ thể.
    1.1.3. Các quy luật của thị trường.
    * Quy luật giá trị:
    Đây là quy luật kinh tế của kinh tế hàng hóa. Khi nào còn sản xuất và lưu thông hàng hóa thì quy luật giá trị còn phát huy tác dụng. Quy luật giá trị yêu cầu sản xuất và lưu thông hàng hóa phải dựa trên cơ sở giá trị lao động. Xã hội, cần thiết trung bình để sản xuất và lưu thông hàng hóa và trao đổi ngang giá. Việc tính toán chi phí sản xuất và lưu thông bằng giá trị là cần thiết bởi đòi hỏi của thị trường, của xã hội với nguồn lực có hạn phải sản xuất được nhiều của cải vật chất cho xã hội nhất, hay là chi phí cho một đơn vị sản phẩm là ít nhất với điều kiện chất lượng sản phẩm cao nhất. Người sản xuất hoặc kinh doanh nào có chi phí lao động xã hội cho một đơn vị sản phẩm thấp hơn, trung bình thì người đó có lợi, ngược lại người nào có chi phí cao thì khi trao đổi thì sẽ không thu được giá trị đã bỏ ra, không có lợi nhuận và phải thu hẹp sản xuất, người kinh doanh phải tiết kiệm được chi phí, phải không ngừng cải tiến kỹ thuật công nghệ, đổi mới sản phẩm, đổi mới kinh doanh, dịch vụ để thỏa mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng, để bán được nhiều hàng hóa và dịch vụ.
    * Quy luật cung cầu.
    Cung cầu hàng hóa dịch vụ không tồn tại độc lập, riêng rẽ mà thường xuyên tác động qua lại với nhau trên cùng một thời gian cụ thể. Trong thị trường, quan hệ cung cầu là quan hệ bản chất, thường xuyên lắp đi lắp lại, khi tăng, khi giảm tạo thành quy luật trên thị trường. Khi cung cầu gặp nhau, giá cả thị trường được xác lập. Đó là giá cả bình quân, gọi là giá cả bình quân nghĩa là ở mức giá đó cung và cầu ăn khớp với nhau. Tuy nhiên mức giá đó lại không đứng yên, nó luôn luôn giao động trước sự tác động của lực cung, lực cầu trên thị trường. Khi cung lớn hơn cầu, giá sẽ hạ xuống, ngược lại khi cầu lớn hơn cung giá lại tăng lên. Việc giá ở mức bình quân cân bằng chỉ là tạm thời, việc mức giá thay đổi là thường xuyên. Sự thay đổi trên là do hàng loạt các nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp tác động đến cầu, đến cung, cũng như kỳ vọng của sản xuất, người kinh doanh và cả của khách hàng.
    * Quy luật cạnh tranh.
    Trong nền kinh tế nhiều thành phần kinh tế, có nhiều người mua, người bán với lợi ích kinh tế khác nhau thì việc cạnh tranh giữa người mua và người mua, người bán với người bán và cạnh tranh giữa người mua và người bán tạo nên sự vận động của thị trường và trật tự của thị trường. Cạnh tranh trong kinh tế là cuộc chạy đua không đích cuối cùng cạnh tranh trong kinh tế là cuộc thi đấu không phải với một đối thủ mà đồng thời với hai đối thủ. Đối thủ thứ nhất là giữa hai phe của hệ thống thị trường và đối thủ thứ hai là giữa các thành viên của cùng một phía với nhau.Tức là cạnh tranh giữa người mua và người bán và cạnh tranh giữa người bán với nhau, không thể lẫn tránh cạnh tranh mà phải chấp nhận cạnh tranh, đón trước cạnh tranh và sẵn sàng sử dụng vũ khí cạnh tranh hữu hiệu.
    1.1.4. Các chức năng của thị trường.
    * Chức năng thừa nhận.
    Doanh nghiệp thương mại mua hàng hóa về để bán. Hàng hóa có bán được hay không phải thông qua chức năng thừa nhận của thị trường, của khách hàng, của doanh nghiệp.
    Nếu hàng hóa bán được, tức là được thị trường thừa nhận, doanh nghiệp thương mại mới thu hồi được vốn có nguồn thu trang trải chi phí và có lợi nhuận. Ngược lại, nếu hàng hóa đưa ra bán nhưng không có ai mua, tức là không được thị trường thừa nhận. Để được thị trường thừa nhận, doanh nghiệp thương mại phải nghiên cứu nhu cầu của khách hàng, hàng hóa phải phù hợp với nhu cầu của khách hàng, phù hợp ở đây là phù hợp về số lượng, chất lượng, sự đồng bộ, quy cách, cỡ loại, mầu sắc, bao bì, giá cả, thời gian và địa điểm thuận tiện cho khách hàng.
    * Chức năng thực hiện.
    Chức năng này đòi hỏi hàng hóa và dịch vụ phải được thực hiện giá trị trao đổi: hoặc bằng tiền hoặc bằng hàng, bằng các chứng từ có giá trị khác. Người bán hàng cần tiền, còn người mua cần hàng. Sự gặp gỡ giữa người bán và người mua được xác định bằng giá hàng. Hàng hóa bán được tức là có sự dịch chuyển hàng hóa từ người bán sang người mua.
    * Chức năng điều tiết và kích thích.
    Qua hành vi trao đổi hàng hóa và dịch vụ trên thị trường, thị trường điều tiết và kích thích sản xuất và kinh doanh phát triển hoặc ngược lại. Đối với doanh nghiệp thương mại, hàng hóa và dịch vụ bán hết nhanh sẽ kích thích doanh nghiệp đẩy mạnh hoạt động tạo nguồn hàng, thu mua hàng hóa để cung ứng ngày càng nhiều hơn hàng hóa và dịch vụ cho thị trường. Ngược lại, nếu hàng hóa và dịch vụ không bán được, doanh nghiệp sẽ hạn chế mua, phải tìm khách hàng mới, thị trường mới, hoặc chuyển hướng kinh doanh mặt hàng khác đang hoặc sẽ có khả năng có khách hàng. Chức năng điều tiết kích thích này luôn điều tiết sự gia nhập ngành hoặc rút ra khỏi ngành của một số doanh nghiệp. Nó khuyến khích các nhà kinh doanh giỏi và điều chỉnh theo hướng đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh có lợi, các mặt hàng mới, chất lượng cao, có khả năng bán được khối lượng lớn.




     
Đang tải...