Luận Văn những vấn đề lý luận chung về hoạt động xuất khẩu (chương 1)

Thảo luận trong 'Đầu Tư' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    166
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    những vấn đề lý luận chung về hoạt động XK (chương 1)


    NG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ
    HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU

    I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU.
    1. Khái niệm về hoạt động xuất khẩu.
    Xuất khẩu là một bộ phận của hoạt động ngoại thương trong đó hàng hoá và dịch vụ được bán, cung cấp cho nước ngoài nhằm thu ngoại tệ.
    Hoạt động xuất khẩu được diễn ra trong mọi lĩnh vực, mọi điều kiện kinh tế, từ xuất khẩu hàng hoá tiêu dùng đến hàng hoá sản xuất, từ máy móc thiết bị cho đến các công nghệ kỹ thuật cao, từ hàng hoá hữu hình cho đến hàng hoá vô hình. Hoạt động này diễn ra trong phạm vi rất rộng cả về không gian và thời gian. Nó có thể chỉ diễn ra trong một ngày hay kéo dài hàng năm; có thể diễn ra trên phạm vi lãnh thổ của một hay nhiều quốc gia khác nhau.
    Nếu xem xét dưới góc độ các hình thức kinh doanh quốc tế thì xuất khẩu là hình thức cơ bản đầu tiên mà các doanh nghiệp áp dụng khi bước vào lĩnh vực kinh doanh quốc tế. Mọi công ty luôn hướng tới xuất khẩu những sản phẩm và dịch vụ của mình ra nước ngoài . Do vậy mà xuất khẩu được xem như chiến lược kinh doanh quan trọng của các công ty.
    Có nhiều nguyên nhân khuyến khích các công ty thực hiện xuất khẩu trong đó có thể là:
    + Sử dụng khả năng vượt trội ( hoặc những lợi thế) của công ty.
    + Giảm được chi phí cho một đơn vị sản phẩm do nâng cao khối lượng sản xuất.
    + Nâng cao được lợi nhuận của công ty.
    + Giảm được rủi ro do tối thiểu hoá sự dao động của nhu cầu.
    Khi một thị trường chưa bị hạn chế bởi thuế quan, hạn ngạch, các quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật hay năng lực của các tổ chức kinh doanh quốc tế chưa đủ thực hiện các hình thức cao hơn thì hình thức xuất khẩu được lựa chọn vì ở xuất khẩu lượng vốn ít hơn, rủi ro thấp hơn và thu được hiệu quả kinh tế cao trong thời gian ngắn.
    Do vậy với hoạt động xuất khẩu phát triển chắc chắn sẽ góp phần to lớn trong sự đi lên của đất nước, hội nhập cùng vào nền kinh tế thế giới.
    2. Các lý thuyết về hoạt động xuất khẩu.
    2.1. Lý thuyết của trường phái trọng thương.
    Lý thuyết trọng thương là nền tảng cho các tư duy kinh tế từ năm 1500 đến năm 1800. Lý thuyết này cho rằng sự phồn vinh của một quốc gia được đo bằng bằng lượng tài sản mà quốc gia đó cất giữ và thường được tính bằng vàng. Theo lý thuyết này chính phủ nên xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu và nếu thành công họ sẽ nhận được giá trị thặng dư mậu dịch được tính theo vàng từ các nước khác.
    Để một nước có thể thặng dư mậu dịch thì:
    + Thặng dư ( mậu dịch) thương mại được thực hiện bởi các công ty buôn bán độc quyền của Nhà nước, hoạt động nhập khẩu bị hạn chế và hoạt động xuất khẩu được trợ cấp.
    + Các cường quốc thực dân luôn cố tìm cách đạt được thặng dư mậu dịch với các thuộc địa của họ. Họ coi đây hnư là một phương tiện khác để có thêm thu nhập . Họ thực hiện điều này không chỉ bằng cách giữ độc quyền thương mại thực dân mà còn ngăn cản các nước thuộc địa sản xuất. Do đó mà các nước thuộc địa phải xuất khẩu nguyên liệu thô, kém gía trị hơn và nhập khẩu những sản phẩm có giá trị cao hơn.
    Lý thuyết trọng thương mang lại lợi ích cho các cường quốc thực dân, vì thế chính sách ngoại thương của trường phái này theo hướng:
    - Giá trị xuất khẩu càng nhiều càng tốt, nghĩa là không những số lượng hàng hoá xuất khẩu phải nhiều mà còn phải ưu tiên xuất khẩu những hàng hoá có giá trị cao hơn hàng hoá có giá trị. Người ta đánh giá thấp việc xuất khẩu nguyên liệu và cố sử dụng nguyên liệu để sản xuất trong nưóc rồi đem xuất khẩu thành phẩm.
    - Giữ nhập khẩu ở mức độ tối thiểu, giành ưu tiên cho nhập khẩu nguyên liệu, hạn chế hoặc cấm nhập khẩu thành phẩm nhất là hàng xa xỉ.
    - Khuyến khích chở hàng hoá bằng tàu của nước mình vì như vậy vừa bán được hàng mà còn tận dụng được cả những món lợi nhuận khác như: cước vận tải, phí bảo hiểm
    Ảnh hưởng của lý thuyết trọng thương đã bị mờ nhạt đi sau năm 1800. Các cường quốc thực dân ít hạn chế sự phát triển công nghiệp của các nước thuộc địa của họ, nhưng các thủ đoạn hợp pháp vẫn buộc chặt quan hệ thương mại của các nước thuộc địa với chính quốc.
    Việt nam cũng giống như nhiều nước khác sau khi giành được độc lập sau đại chiến Thế giới lần thứ II, đã bắt đàu xây dựng cơ cấu sản xuất và chiến lược thương mại gần giống như ý tưởng của lý thuyết trọng thương trong thời hoàng kim đó là đẩy mạnh xuất khẩu.
    2.2. Lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith.
    Không như trường phái trọng thương, AdamSmith cho rằng: “sự giàu có của mỗi quốc gia phụ thuộc vào số hàng hoá và dịch vụ có sẵn hơn là phụ thuộc vào vàng”.
    Theo Adam Smith, nếu thương mại không bị hạn chế theo nguyên tắc phân công thì các quốc gia có lợi ích từ thương mại quốc tế - nghĩa là mỗi quốc gia có lợi thế về mặt điều kiện tự nhiên hay do trình độ sản xuất phát triển cao sẽ sản xuất ra những sản phẩm nhất định mà mình có lợi thế với chi phí thấp hơn so với các nước khác. Ông phê phán sự phi lý của lý thuyết trọng thương và chứng minh rằng: mậu dịch sẽ giúp cả hai bên đều gia tăng tài sản. Theo ông, nếu mỗi quốc gia đều chuyên môn hoá vào những ngành sản xuất mà họ có lợi thế tuyệt đối, thì họ có thể sản xuất được những sản phẩm có chi phí thấp hơn so với nước khác để xuất khẩu, đồng thời lại nhập khẩu về những hàng hoá mà nước này không sản xuất được hoặc sản xuất được nhưng chi phí sản xuất cao hơn giá nhập khẩu.
    Nhờ sự chuyên môn hoá các nước có thể gia tăng hiệu quả của họ do người lao động sẽ lành nghề cao hơn do công việc của họ được lặp lại nhiều lần, người lao động không phải mất thời gian trong việc chuyển sản xuất sản phẩm này sang sản phẩm khác, do làm một công việc lâu dài , người lao động sẽ có nhiều kinh nghiệm và có các sáng kiến, các phương pháp làm việc tốt hơn.
    Mặc dù Adam Smith cho rằng, thị trường chính là nơi quyết định nhưng ông vẫn nghĩ lợi thế của một nước có thể là do lợi thế tự nhiên hay do nổ lực cả nước đó.
    Lợi thế tự nhiên liên quan đến các điều kiện tự nhiên và khí hậu. Lợi thế do nổ lực là lợi thế có thể có được do sự phát triển của kỹ thuật và sự lành nghề.
    Ngày nay người ta thường buôn bán, trao đổi các loại hàng hoá đã được sản xuất công phu hơn là các nông phẩm hay tài nguyên thiên nhiên nguyên khai thác hoặc sản phẩm thô.
     
Đang tải...