Luận Văn Những vấn đề lý luận chung về công tác XTĐT nhằm phát triển các KCN

Thảo luận trong 'Lao Động' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Những vấn đề lý luận chung về công tác XTĐT nhằm phát triển các KCN
    CHƯƠNG I​​Những vấn đề lý luận chung về công tác XTĐT nhằm phát triển các KCN​​I, Khái niệm, đặc điểm và phân loại KCN
    1. Khái niệm KCN :
    Từ cuối thế kỉ XIX các KCN đã bắt đầu hình thành và phát triển. Năm1896 KCN đầu tiên trên thế giới được thành lập ở Trafford Park thành phố Manchester nước Anh. Tiếp theo Anh, các nước khác lần lượt thành lập các khu công nghiệp như Hoa Kỳ (1899), Italia (1904)và sau những năm 50 của thế kỉ XX thì sự tăng trưởng của các KCN mới bắt đầu bùng nổ. Hiện nay theo số liệu nghiên cứu của hội đồng nghiên cứu phát triển quốc tế (IDRC) hiện tại có khoảng 12600 KCN nằm rải rác ở 90 quốc gia trên thế giới. Với châu Á, KCN đầu tiên được thành lập đầu tiên ở Singapore (1951) ở Malaysia (1954), Ấn Độ (1955). Khu vực châu Á có khoảng hơn 1000 KCN đang hoạt động ( Malaysia có 166, Hàn Quốc 197 KCN, Nhật Bản 95 KCN)

    Hiện nay quan niệm về KCN rất khác nhau. KCN thường được hiều là một vùng đất được phân chia và phát triển có hệ thống theo một quy hoạch tổng thể nhằm cung cấp địa diểm cho các ngành công nghiệp với hạ tầng cơ sở, tiện ích công cộng và các dịch vụ hỗ trợ phát triển khác. Các nước như Thái Lan , Philipin lại quan niệm KCN như một thành phố công nghiệp vì ngoài việc cung cấp cơ sở hạ tầng, các tiện nghi, tiện ích công cộng hoàn chỉnh và xử lý chất thải, KCN còn bao gồm khu thương mại, dịch vụ ngân hàng, trường học, bệnh viện, các khu vui chơi giải trí cho công nhân.

    Theo nghị định 36/1997/NĐ-CP quy định: “ khu công nghiệp là khu tập trung các doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ sản xuất công nghiệp có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống, do Chính Phủ hoặc Thủ Tướng Chính Phủ quyết định thành lập.
    Theo luật đầu tư năm 2005_quy định tại khoản 20_ Điều 3 thì KCN là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo quy định của Chính phủ.

    2. Phân loại KCN :
    Để hiểu rõ hơn khái niệm KCN, cần xem xét cách tiếp cận hình thành loại hình KCN. Có nhiều cách tiếp cận khác nhau để phân nhóm các loại hình KCN.

    Căn cứ vào tính chất nhiệm vụ sản xuất kinh doanh: người ta chia ra các loại hình như: KCN tổng hợp, KCX, KCNC. Đây là cách phân chia tương đối phổ biến ở trên thế giới cũng như ở nước ta. Trong KCN tổng hợp (hay KCN ) như cách hiểu ở trên là khu để bố trí các doanh nghiệp công nghiệp sản xuất chỉ dành cho xuất khẩu. Khu công nghệ cao là khu bố trí cho các doanh nghiệp thuộc nhóm ngành công nghệ kĩ thuật cao là loại hình KCN đặc biệt, ngoài hưởng quy chế KCN còn được hưởng quy chế riêng đối với các loại hình này.

    Căn cứ vào phương thức hình thành KCN: có KCN xây dựng mới hoàn toàn ( khá phổ biến ở nước ta); KCN hình thành dựa trên cơ sở xây dựng lại, đồng bộ hiện đại hóa các doanh nghiệp đã có.
    Căn cứ vào quy mô: KCN quy mô lớn, vừa và nhỏ. Việc hình thành các loại hình quy mô này tùy thuộc vào khả năng đất đai, vị trí thuận lợi , sự hấp dẫn các nhà đầu tư trong và ngoài nước thì các tiêu thức xác định quy mô KCN mỗi thời điểm, mỗi quốc gia có khác nhau. Thông thường:
    KCN quy mô nhỏ: có diện tích dưới 150 ha.
    KCN quy mô nhỏ: từ 150 dến 300 ha.
    KCN quy mô lớn : có diện tích trên 300 ha.
    Căn cứ vào quan hệ liên đới như di dời các nhà máy phân bố trong các đô thị hoặc xen kẽ với khu vực dân cư sinh sống tập trung. Di chuyển các nhà máy là nhu cầu cấp bách để giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường khu dân cư sinh sống và phát triển đô thị. Phát triển các KCN chủ yếu dành cho đối tượng các nhà máy di chuyển trên.
    Căn cứ vào mối quan hệ liên đới giữa sản xuất chế biến của các nhà máy công nghiệp với nguồn cung cấp nguyên liệu nông lâm thủy sản để hình thành KCN .
    3. Vai trò của các KCN với phát triển nền kinh tế:
    Phát triển các KCN nhằm thúc đẩy mạnh CNH, HĐH, tạo tiền đề vững chắc cho sự phát triển của lực lượng sản xuất trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa là một chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước ta. Quán triệt chủ trương này, khu chế xuất Tân Thuận đã được thành lập. trải qua 16 năm xây dựng hiện nay trên địa bàn cả nước đã có khỏang 150.000 KCN phân bố rộng khắp. Các KCN từng bước khẳng định được vai trò, vị trí của mình trong tiến trình CNH-HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta trong thời gian qua. Tuy nhiên bên cạnh đó việc phát triển các KCN cũng tiềm ẩn nhiều yếu tố thiếu bền vững ảnh hưởng tới phát triển nền kinh tế Việt Nam trong tương lai
    3.1 Vai trò của KCN đối với nền kinh tế Việt Nam:
    KCN –địa chỉ thu hút vốn mạnh mẽ với nhiều chính sách ưu đãi dặc biệt, cùng với một cơ chế quản lý đặc thù, thủ tục đầu tư ngày càng đơn giản thuận tiện hơn so với bên ngoài, và hệ thống kêt cấu hạ tầng khá thuận lợi, các KCN đang thực sự là địa chỉ hấp dẫn các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Có rất nhiều doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, bao gồm doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp nhà nước, và doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã đầu tư vào KCN .
    3.2 KCN góp phần tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
    Tuy thời gian phát triển không lâu, song các KCN đã góp phần quan trọng vào việc tạo ra nhiều giá trị sản xuất công nghiệp; đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, chuyển dịch cơ cấu kinh tế; từng bước đưa nước ta tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế theo hướng tập trung hóa, chuyên môn hóa; khai thác tốt hơn mọi nguồn lực và những lợi thế hiện có, nâng cao sức cạnh tranh và đẩy nhanh tốc độ phát triển chung của nền kinh tế.
    Góp phần tạo công ăn việc làm, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và xóa đói giảm nghèo theo số liệu thống kê dên năm 2005 các doanh nghiệp trong KCN đã tạo ra khoảng 750 nghìn lao động trực tiếp và hơn 1 triệu lao dộng gián tiếp. Nếu so với khả năng tạo việc là thì con số này chưa phải là tương xướng với tiềm năng. Nhưng điều quan trọng là lao động hầu hết là lao động trẻ họ có cơ hội tiếp thu với công nghệ sản xuất hiện đại và phương thức quản lý tiên tiến, có bài bản. Đây là điều kiện quan trọng để xây dựng đội ngũ lao dộng mới có kỷ luật, có kỹ thuật và có năng suất cho công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
     
Đang tải...