Thạc Sĩ Những vấn đề đặt ra và các giải pháp nhằm phát triển kinh tế - xã hội ở An Giang trong mùa nước nổi

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 16/12/13.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    MỞ ĐẦU
    1. Tính cấp thiết của đề tài
    Nằm ở phần cuối của lãnh thổ Việt Nam thuộc khu vực hạ lưu sông Cửu
    Long, với một địa bàn 13 tỉnh gồm: Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà
    Vinh, Cần Thơ, Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Đồng Tháp, An Giang,
    Kiên Giang, có diện tích tự nhiên là 3.956.900 ha, dân số trên 16 triệu người, chiếm
    12% diện tích và 21% dân số cả nước, hàng năm đóng góp trên 80% sản lượng gạo
    và 60% sản lượng thủy sản để xuất khẩu. Đồng bằng sông Cửu Long không chỉ
    được đánh giá là một vùng đất trù phú, màu mỡ, nhiều tài nguyên, là vùng đồng
    bằng lớn nhất Việt Nam, được thiên nhiên ưu ái dành cho nhiều điều kiện thuận lợi
    để phát triển, mà còn được xem như là một vùng kinh tế có vị trí và vai trò chiến
    lược trong nền kinh tế nước ta nhất là trong sản xuất nông nghiệp, góp phần quan
    trọng trong đảm bảo an ninh lương thực không chỉ cho quốc gia, mà còn cho xuất
    khẩu.
    Tuy nhiên, đồng bằng sông Cửu Long cũng là vùng đất phải chịu nhiều thiên
    tai lũ lụt có tính chu kỳ hàng năm theo kiểu 6 tháng mùa khô, 6 tháng mùa nước.
    Chính lũ lụt là điều kiện ưu đãi của thiên nhiên giúp cho đồng bằng sông Cửu Long
    thêm màu mỡ, trù phú thông qua tác dụng tháo chua, rửa phèn, bồi đắp phù sa, tạo
    lợi thế riêng có về khai thác và nuôi trồng thủy sản Đồng thời cũng chính lũ lụt
    lại là nguyên nhân chính gây nhiều thiệt hại về người và của, tàn phá cơ sở hạ tầng
    kỹ thuật
    Bên cạnh đó, do đặc thù về tự nhiên, đồng bằng sông Cửu Long có hệ thống
    sông ngòi chằng chịt, vừa có tác dụng đưa nước vào đồng, phục vụ sinh hoạt và lưu
    thông lại vừa có tác dụng thoát lũ nên không giống như vùng đồng bằng sông Hồng
    là đắp đê chống lũ triệt để, vùng đồng bằng sông Cửu Long phải chọn giải pháp là
    sống chung với lũ. Sống chung với lũ là một hiện tượng tự nhiên, xã hội đã và đang
    được cư dân vùng đồng bằng sông Cửu Long tiếp nhận trong suốt quá trình hình
    thành và phát triển của vùng đất này. Từ chỗ sống chung với lũ một cách thụ động,
    con người ngày càng hiểu thêm về lũ, nắm bắt được nhiều hơn những quy luật của
    lũ để dần hạn chế đến mức thấp nhất những tác hại do lũ mang lại cũng như khai
    thác tối đa những lợi ích mà lũ mang lại, tiến dần đến chủ động sống chung với lũ,
    kiểm soát một cách hiệu quả hiện tượng tự nhiên này.
    An Giang là tỉnh đầu nguồn, có toàn bộ diện tích nằm trong vùng lũ và phải
    chịu ảnh hưởng của lũ lâu dài và nặng nề nhất. Thời gian chịu lũ kéo dài khoảng 6
    tháng trong năm nên vấn đề được đặt ra là làm thế nào để khai thác một cách có
    hiệu quả nhất những công trình, cơ sở hạ tầng kiểm soát lũ đã được đầu tư phục vụ
    cho việc chủ động sống chung với lũ, khai thác tối đa những lợi thế của lũ cũng như
    trong phát triển kinh tế - xã hội, hạn chế thấp nhất những thiệt hại do lũ mang lại.
    Quyết định 99/TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 9/2/1996 về định hướng
    dài hạn và kế hoạch 5 năm 1996-2000 đối với việc phát triển thủy lợi, giao thông và
    xây dựng nông thôn đồng bằng sông Cửu Long đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho
    phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bằng sông Cửu Long, cho quá trình chủ động
    sống chung với lũ. Song quá trình này cũng đặt ra nhiều vấn đề mới cần phải nghiên
    cứu như: xây dựng các cụm tuyến dân cư vượt lũ nhằm đảm bảo an toàn tính mạng,
    tài sản của nhân dân trong mùa lũ nhưng cũng làm thay đổi phong tục, tập quán,
    cách sống của nhân dân; xây dựng đê bao chống lũ kết hợp với phát triển đường
    giao thông nông thôn nhưng cũng ngăn không cho nước tràn đồng, có thể làm tăng
    mực nước lũ trên các dòng chính .
    Vì vậy, việc nghiên cứu vấn đề: "Những vấn đề đặt ra và các giải pháp
    nhằm phát triển kinh tế - xã hội ở An Giang trong mùa nước nổi "
    là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn trong việc chủ động sống chung với lũ,
    thúc đẩy nhanh quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn An
    Giang. Qua đó, tổng kết kinh nghiệm và góp phần thúc đẩy quá trình khai thác lợi
    thế mùa nước nổi của người dân vùng lũ bao đời nay từ tự phát lên tự giác dưới sự
    định hướng và hỗ trợ của Nhà nước.
    2. Tình hình nghiên cứu đề tài
    Hiện nay, việc nghiên cứu về lũ ở châu thổ sông Cửu Long đã các công
    trình sau:
    GS.TS Nguyễn Ngọc Trân (Chủ biên): "Đồng bằng sông Cửu Long tài
    nguyên - môi trường - phát triển", Ủy ban Khoa học Nhà nước (Chương trình điều
    tra cơ bản tổng hợp vùng đồng bằng sông Cửu Long), Hà Nội - Thành phố Hồ Chí
    Minh - Đồng bằng sông Cửu Long, 1990. Đây là công trình của Ủy ban Khoa học
    kỹ thuật Nhà nước về điều tra, nghiên cứu, đánh giá tài nguyên và điều kiện thiên
    nhiên của đồng bằng sông Cửu Long, từ đó đưa ra những nhận định về tiềm năng
    nông nghiệp và những kiến nghị khoa học về sử dụng và bảo vệ tài nguyên, cung
    cấp các tư liệu điều tra, nghiên cứu khoa học làm luận cứ cho quy hoạch phát triển
    vùng đồng bằng sông Cửu Long.
    Nguyễn Công Bình (Chủ biên): "Đồng bằng sông Cửu Long nghiên cứu
    phát triển", Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1995. Đây là những chuyên đề khảo cứu
    về đồng bằng sông Cửu Long dưới góc độ các ngành khoa học về lịch sử, kinh tế,
    xã hội, văn hóa, tự nhiên, môi trường, kỹ thuật, nông nghiệp.
    PGS.TS Phương Ngọc Thạch: "Định hướng và một số giải pháp chuyển dịch
    cơ cấu kinh tế vùng ngập lụt đồng bằng sông Cửu Long", Trung tâm Nghiên cứu
    kinh tế miền Nam, 1998.
    PGS.TS Phương Ngọc Thạch: "Những biện pháp thúc đẩy công nghiệp hóa,
    hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn vùng đồng bằng sông Cửu Long", Nxb Chính
    trị quốc gia, Hà Nội, 2002. Tác giả đã phân tích đặc điểm và thực trạng kinh tế - xã
    hội của vùng đồng bằng sông Cửu Long, những nhân tố tác động và mối quan hệ
    giữa đồng bằng sông Cửu Long với các tỉnh phía Nam nhất là đối với Thành phố
    Hồ Chí Minh. Trên cơ sở đó, tác giả đã đề xuất một số giải pháp nhằm đưa nông
    nghiệp nông thôn đồng bằng sông Cửu Long phát triển theo hướng công nghiệp
    hóa, hiện đại hóa.
    PGS.TS Đào Công Tiến (Chủ biên): "Kinh tế - xã hội và môi trường vùng
    ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002 và
    "Vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long hiện trạng và giải pháp", Nxb Đại học
    quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2001. Đây là đề tài khoa học độc lập cấp nhà
    nước tiến hành điều tra nghiên cứu về vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long trên
    các lĩnh vực: điều kiện tự nhiên, tài nguyên và đa dạng sinh học; cơ cấu kinh tế
    vùng ngập lũ; hệ thống canh tác nông - lâm - ngư kết hợp; nước sạch và vệ sinh môi
    trường; giáo dục và dạy nghề .
    Dương Văn Nhã: "Báo cáo tác động của đê bao đến kinh tế - xã hội - môi
    trường", chương trình nghiên cứu Việt Nam - Hà Lan, An Giang, 2004. Chương
    trình đã điều tra và đánh giá những tác động việc thực hiện đê bao chống lũ tại một
    số địa phương ở đồng bằng sông Cửu Long, đưa ra một số nhận định về việc thực
    hiện đê bao triệt để, đê bao tháng 8 và không đê bao.
    Ngoài ra, còn nhiều bài viết đăng trên các báo, tạp chí, các đề tài nghiên cứu
    khoa học cấp bộ, địa phương. Các công trình trên đã nghiên cứu về mùa lũ ở châu
    thổ sông Cửu Long và vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long dưới nhiều góc độ
    khác nhau và đề cập đến một số nội dung chủ yếu sau:
    Một là, điều tra tổng hợp về kinh tế - xã hội - môi trường - văn hóa - giáo
    dục vùng đồng bằng sông Cửu Long, cung cấp số liệu cho công tác quy hoạch phát
    triển vùng đồng bằng sông Cửu Long.
    Hai là, đánh giá tác động và đưa ra những khuyến nghị về việc phát triển
    đồng bằng sông Cửu Long trong mối quan hệ với vùng kinh tế trọng điểm phía Nam
    nhất là trong mối quan hệ với Thành phố Hồ Chí Minh.
    Ba là, đánh giá bước đầu ảnh hưởng của việc thực hiện chương trình đê bao
    chống lũ triệt để ở một số địa phương.
    Bốn là, đưa ra những kiến nghị nhằm khuyến khích phát triển kinh tế - xã
    hội - môi trường và chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu
    Long trong điều kiện chung sống với lũ.
    Tuy nhiên, chưa có một đề tài nào nghiên cứu mùa lũ ở châu thổ sông Cửu
    Long với tư cách là một nguồn lực - nguồn tài nguyên thiên nhiên phục vụ cho quá
    trình phát triển kinh tế - xã hội của vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long nói
    chung và trên địa bàn tỉnh An Giang nói riêng.
    3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn
    Trên cơ sở phát huy hiệu quả của các công trình cơ sở hạ tầng phục vụ cho
    việc chủ động chung sống và phát triển kinh tế - xã hội trong mùa nước nổi; nghiên
    cứu những lợi thế của mùa nước nổi có thể khai thác để phục vụ cho quá trình phát
    triển kinh tế - xã hội ở An Giang; từ thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội ở An Giang
    trong mùa nước nổi, nêu lên được những vấn đề đã và đang đặt ra trong quá trình
    phát triển kinh tế - xã hội ở An Giang và đề xuất một số giải pháp cơ bản để giải
    quyết những vấn đề đó.
    Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
    - Phân tích được tác hại và lợi thế của mùa nước nổi đối với quá trình phát
    triển kinh tế - xã hội ở An Giang trên cơ sở có tác động của các công trình đã và
    đang xây dựng để chung sống trong mùa nước nổi.
    - Phân tích, đánh giá những thành công bước đầu của quá trình phát triển
    kinh tế - xã hội ở An Giang trong mùa nước nổi; những tác động của phát triển kinh
    tế - xã hội trong mùa nước nổi đối với phát triển kinh tế - xã hội ở An Giang.
    - Xác định được những vấn đề đã và đang đặt ra cũng như đề xuất những
    giải pháp cơ bản để giải quyết những vấn đề đó.
    4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
    Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề đã và đang đặt ra cho
    quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở An Giang.
    Phạm vi nghiên cứu là địa bàn tỉnh An Giang, tuy nhiên trong một chừng
    mực nhất định, luận văn có đề cập đến những tác động chung của mùa nước nổi đối
    với đồng bằng sông Cửu Long. Thời gian nghiên cứu khi có chủ trương chung sống
    với lũ từ năm 2000 đến nay. Trong quá trình nghiên cứu, một số dữ liệu phát triển
    kinh tế - xã hội ở An Giang trong mùa nước nổi chỉ có từ 2002 đến nay do nguyên
    nhân khách quan là những chương trình đó được triển khai trong thực tiễn từ 2002.
    5. Phương pháp nghiên cứu
    Luận văn sử dụng quan điểm cơ bản và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-
    Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nghị quyết và chủ trương của Đảng, chính sách và
    pháp luật của Nhà nước có liên quan đến phát triển nông nghiệp nông thôn nói
    chung và vùng đồng bằng sông Cửu Long nói riêng. Tham khảo và tiếp thu có chọn
    lọc các kết quả nghiên cứu khác có liên quan đến đề tài.
    6. Đóng góp của luận văn
    - Làm rõ những lợi thế tự nhiên trong trong mùa nước nổi có tác động tích
    cực đối với phát triển kinh tế - xã hội ở vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long nói
    chung và An Giang nói riêng.
    - Khái quát những vấn đề cấp thiết đang đặt ra đối với phát triển kinh tế - xã
    hội ở An Giang trong mùa nước nổi.
    - Đề xuất những giải pháp chủ yếu để giải quyết những vấn đề được đặt ra
    để phát triển kinh tế - xã hội ở An Giang trong mùa nước nổi.
    7. Kết cấu của luận văn
    Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
    dung của luận văn gồm 3 chương, 9 tiết.
    Chương 1
    LỢI THẾ VÀ HẠN CHẾ CỦA MÙA NƯỚC NỔI
    ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở AN GIANG
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...