Luận Văn Những vấn đề cơ bản về đánh giá rủi ro trước khi cho vay đầu tư phát triển của ngân hàng thương mại

Thảo luận trong 'Kế Toán - Kiểm Toán' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐÁNH GIÁ RỦI RO TRƯỚC KHI CHO VAY ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

    CHƯƠNG 1
    NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐÁNH GIÁ RỦI RO
    TRƯỚC KHI CHO VAY ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG


    1.1. HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
    1.1.1. Khái quát chung về các nghiệp vụ của Ngân hàng
    Ngân hàng thương mại là một trong những ngành công nghiệp có từ lâu đời. Ngân hàng thương mại đầu tiên được ra đời vào năm 1782. Đến nay, Ngân hàng có hoạt động gần gũi với nhân dân và có nền kinh tế trong các nước phát triển, hầu như không có một công dân nào không có quan hệ giao dịch với ngân hàng. Nền kinh tế càng phát triển, hoạt động và dịch vụ của NHTM càng đi sâu vào những ngõ nghách của nền kinh tế và đời sống của con người. Mọi công dân đều chịu tác động của ngân hàng, dù họ là khách hàng gửi tiền, một người vay hay đơn giản là một người đang làm việc cho một doanh nghiệp có vay vốn và sử dụng các dịch vụ ngân hàng. NHTM có những nghiệp vụ chủ yếu như sau
    a) Nghiệp vụ tài sản nợ và vốn của Ngân hàng
    Đây là nghiệp vụ khởi đầu tạo điều kiện cho sự phát triển ngân hàng về sau, khi NHTM dã hình thành và ổn định, các nghiệp vụ của nó được xen kẽ lẫn nhau trong suốt quá trình hoạt động.
    - Nghiệp vụ phát hành giấy tờ có giá: Các NHTM thường sử dụng nghiệp vụ này để thu hút các khoản vốn có tính dài hạn nhằm đảm bảo khả năng đầu tư các khoản vốn dài hạn của Ngân hàng vào nền kinh tế. Ngoài ra, nghiệp vụ này còn giúp các ngân hàng thương mại tăng cường tính ổn định vốn trong hoạt động kinh doanh của mình.
    - Nghiệp vụ đi vay: Sau khi đã sử dụng hết vốn, nhưng vẫn chưa dáp ứng được nhu cầu vay vốn của khách hàng hoặc phải đáp ứng nhu cầu thanh toán và chi của khách hàng, các NHTM có thể đi vay NHTƯ, ở các NHTM khác, vay ở một thị trường tiền tệ, vay các tổ chức ngoài nước, Vốn đi vay chỉ chiếm một tỷ trọng có thể chấp nhận được trong kết cấu nguồn vốn, nhưng nó rất cần thiết và có vị trí quan trọng để đảm bảo cho ngân hàng hoạt động kinh doanh một cách bình thường.
    - Nghiệp vụ huy động vốn khác: Các ngân hàng còn huy động vốn dưới hình thức uỷ thác hay đại lý cho các tổ chức cá nhân. Nhờ vào uy tín và nghiệp vụ của mình, các ngân hàng thường được các tổ chức hoặc cá nhân uỷ thác thực hiện thanh toán tiền hoặc giải ngân vốn, làm đại lý khác.
    b) Nghiệp vụ tài sản có
    - Nghiệp vụ ngân quỹ: Để đảm bảo khả năng thanh toán của mình, các Ngân hàng thường phải thực hiện nghiêm chỉnh các quy định mang tính pháp luật về đảm bảo khả năng thanh toán của Ngân hàng trung ương như: tỷ lệ dự trữ bắt buộc
    Mặc dù khoản vốn dùng cho nghiệp vụ này của Ngân hàng mang lại lợi nhuận thấp hoặc không mang lại lợi nhuận nhưng nó lại giúp ngân hàng không bị mất khả năng thanh toán khi khách hàng gửi tiền rút tiền trước hạn, cũng như đảm bảo an toàn chung về hoạt động của từng Ngân hàng thương mại.
    - Nghiệp vụ cho vay: Nghiệp vụ cho vay là nghiệp vụ mang lại lợi nhuận chính cho các Ngân hàng. Nghiệp vụ này rất đa dạng về hình thức và phức tạp về nội dung. Nghiệp vụ này bao gồm: tín dụng trung dài hạn, ngắn hạn, cho thuê tài chính, bảo lãnh .
    Nghiệp vụ này mang tính rủi ro cao do chịu nhiều yếu tố tác động như: kinh tế, chính trị, điều kiện tự nhiên .
    c) Nghiệp vụ kinh doanh khác
    Để giảm rủi ro trong hoạt động Ngân hàng, các Ngân hàng thương mại phải thực hiện đa dạng hoá sản phẩm của mình như: dịch vụ tư vấn, đầu tư tài chính, liên doanh, hùn vốn, góp vốn, kinh doanh vàng bạc đá quý, kinh doanh ngoại hối .
    Tóm lại: các nghiệp vụ của Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường vô cùng phong phú và phức tạp, chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Nghiệp vụ tài sản nợ quyết định đến quy mô và phạm vi hoạt động của nghiệp vụ tài sản có. Mỗi nghiệp vụ đều là tiền đề, điều kiện để duy trì và phát triển các nghiệp vụ khác
    Tuy vậy trong các nghiệp vụ của Ngân hàng thương mại thì nghiệp vụ tín dụng vẫn là nghiệp vụ quan trọng nhất, là nghiệp vụ sinh lời chủ yếu, quyết định kết quả kinh doanh của Ngân hàng thương mại.
    Đi đôi với việc phát triển hoạt động của nghiệp vụ tín dụng thì những khó khăn mà ngân hàng gặp phải ngày càng nhiều và phức tạp. Để tăng cường chất lượng tín dụng, các ngân hàng thương mại thường xuyên phải đánh giá rủi ro trong hoạt động tín dụng của mình.




    1.1.2. Rủi ro trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại
    1.1.2.1. Khái niệm về rủi ro
    Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về rủi ro như: "rủi ro trong hoạt động kinh tế nói chung là những tổn thất mà các doanh nghiệp phải gánh chịu trong hoạt động kinh doanh của mình" hoặc "rủi ro là những bất trắc gây ra mất mát, thiệt hại” nhưng nói chung mọi định nghĩa đều đi tới sự khẳng định "rủi ro là những điều ngoài mong muốn và mang lại hậu quả xấu". Rủi ro có thể gặp bất cứ lúc nào ngoài ý thức của con người. Chúng ta không thể loại bỏ hoàn toàn rủi ro ra khỏi môi trường kinh doanh mà chỉ có thể nghiên cứu nó, nhận biết nó và hạn chế nó tới mức thấp nhất.
    Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ. Trong quá trình hoạt động của mình, ngân hàng chịu nhiều rủi ro khác nhau do nguyên nhân khách quan, chủ quan
    1.1.2.2. Những rủi ro chủ yếu trong hoạt động kinh doanh của NH TM
    a)Rủi ro tín dụng
    Rủi ro trong kinh doanh tín dụng là những tổn thất xảy ra trong quá trình thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh tín dụng của mình.
    Rủi ro tín dụng là rủi ro do khách hàng không trả được nợ vay cho ngân hàng. Các khoản tiền cho vay thường có tỷ lệ rủi ro hơn so với các tài sản có khác. Do tính lỏng thấp và tính rủi ro cao hơn nên các ngân hàng thường thu được lợi nhuận cao từ hoạt động tín dụng. Trên thế giới, hoạt động tín dụng mang lại 2/3 thu nhập cho ngân hàng. Còn tại Việt nam 90%thu nhập của các ngân hàng từ nghiệp vụ tín dụng.
    Muốn hạn chế rủi ro trong kinh doanh tín dụng của các ngân hàng nhất thiết phải có những giải pháp đồng bộ cả về môi trường kinh tế, cơ chế nghiệp vụ, công tác tổ chức, đào tạo cán bộ .
    b) Rủi ro thiếu vốn khả dụng
    Với tư cách là một trung gian tài chính, ngân hàng là một doanh nghiệp mà người quản lý nó luôn luôn nhằm tối đa hoá lợi nhuận.
    Rủi ro thiếu vốn xảy ra khi ngân hàng không đáp ứng được vốn cho hoạt động kinh doanh của mình. Nó xảy ra khi tình trạng mất cân đối nghiêm trọng giữa việc huy động và sử dụng vốn. Nguyên nhân dẫn đến thiếu vốn do ngân hàng không có các chính sách huy động vốn linh hoạt, chính sách lãi suất chưa phù hợp.


    c) Rủi ro lãi suất
    Lãi suất là chi phí để đi vay hoặc giá phải trả để thuê vốn trong một thời gian nào đó. Các ngân hàng hoạt động trong cơ chế lãi suất luôn biến đổi theo lãi suất của thị trường. Hiện tượng lãi suất tăng hoặc giảm có thể gây rủi ro cho hoạt động của Ngân hàng thương mại. Hiện nay để giảm rủi ro lãi suất các ngân hàng thường thực hiện các hợp đồng với lãi suất thả nổi, lãi suất được áp dụng theo sự thay đổi lãi suất cơ bản của ngân hàng nhà nước biến động của lãi suất trên thị trường tiền tệ.
    d) Rủi ro tỷ giá hối đoái
    Các rủi ro trong việc giao dịch ngoại hối xuất phát từ tỷ giá hối đoái của các loại tiền tệ khác nhau do tác động của kinh tế và chính trị của một đất nước.Vậy rủi ro tỷ giá hối đoái là rủi ro xảy ra khi có biến động về tỷ giá ngoại hối. Do tỷ giá chịu tác động của nhiều yếu tố khác nhau như tình hình kinh tế của các nước, lãi suất của từng đồng tiền, điều kiện về thiên nhiên . nên thường xuyên có sự biến động.
    e) Rủi ro trong thanh khoản
    Rủi ro trong thanh khoản phát sinh khi những người gửi tiền đồng thời có nhu cầu rút tiền gửi ở ngân hàng ngay lập tức. Trong những trường hợp như vậy ngân hàng phải đi vay bổ sung nguồn vốn thanh toán hoặc phải bán tài sản của mình để đáp ứng nhu cầu rút tiền của người gửi tiền.
    Đây là loại rủi ro không những ảnh hưởng nặng nề đến hoạt động của ngân hàng mà còn ảnh hưởng đến cả một nền kinh tế. Các cuộc khủng hoảng ngân hàng thương mại kéo theo sự suy thoái kinh tế, ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống kinh tế, xã hội
    f) Các loại rủi ro khác: Trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng còn chịu những loại rủi ro khác nhau như: rủi ro do hoạt động ngoại bảng, rủi ro công nghệ, rủi ro quốc gia .
    Tóm lại: Rủi ro trong quá trình kinh doanh của các Ngân hàng thương mại tuỳ theo mức độ mà ảnh hưởng ít hay nhiều tới bản thân Ngân hàng cũng như khách hàng của họ. Đặc biệt, rủi ro trong hoạt động tín dụng ảnh hưởng lớn tới ngân hàng cũng như tới toàn bộ nên kinh tế. Khi một khoản tín dụng lớn gặp rủi ro có thể dẫn tới tình trạng ngân hàng thiếu vốn khả dụng hoặc mất khả năng thanh toán. Khi đó lòng tín của khách hàng vào Ngân hàng giảm sút đáng kể có thể gây nên tình trạng rút vốn ồ ạt do đó càng đẩy ngân hàng vào tình trạng khó khăn hơn.



     
Đang tải...