Thạc Sĩ Những vấn đề cơ bản của ngôn ngữ cử chỉ

Thảo luận trong 'Ngôn Ngữ Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    TÊN ĐỀ TÀI : Thạc Sỹ Những vấn đề cơ bản của ngôn ngữ cử chỉ

    MỞ ĐẦU

    1. Lí do chọn đề tài


    Xã hội loài người càng phát triển thì ngôn ngữ âm thanh càng hoàn thiện và
    nó thực sự đã là thành tựu vô giá của con người. Tuy vậy, cử chỉ điệu bộ vẫn không
    bị tước đoạt giá trị giao tiếp vốn có của nó. Cử chỉ điệu bộ được coi là phương tiện
    giao tiếp thuận tiện nhất, tiết kiệm nhất và có hiệu quả nhất sau ngôn ngữ âm thanh.
    Tác động qua lại giữa cử chỉ điệu bộ và ngôn ngữ âm thanh tạo nên cấu trúc của
    một hành động giao tiếp cụ thể. Nói cách khác, cử chỉ điệu bộ là hành vi không thể
    thiếu để bù đắp cho sự thiếu hụt của ngôn ngữ lời nói (giao tiếp bằng lời).
    Nguyễn Văn Lê cho rằng: “Trong giao tiếp, kênh lời nói và chữ viết là kênh
    ngôn ngữ, còn các kênh nét mặt, tư thế, cử chỉ, trang phục, cự li là các thành phần
    của sự giao tiếp phi ngôn ngữ” [19, tr. 42]. Thật vậy, giao tiếp phi ngôn ngữ (hay
    giao tiếp không lời) bao gồm những dấu hiệu cơ bản sau đây: nét mặt, tư thế, cử chỉ,
    khoảng cách, trang phục, khung cảnh tự nhiên, khung cảnh xã hội Những kênh
    này “không nói bằng lời” cụ thể nhưng lại hàm chứa những thông tin rất chuẩn xác,
    chân thật giúp ta nhận diện và hiểu được những thông điệp, tình cảm, tính
    cách của người đối thoại một cách trọn vẹn hơn.
    Albert Maerabian nhận định: “Trao đổi thông tin diễn ra qua các phương
    tiện bằng lời (chỉ bằng lời) là 7%, qua các phương tiện âm thanh (gồm giọng điệu,
    giọng nói, ngữ điệu và âm thanh) là 38%, còn qua các phương tiện không bằng lời
    là 55%” [Dẫn theo 24, tr. 9].
    Cùng quan điểm trên, Giáo sư Berdwissel nhấn mạnh: “Giao tiếp chỉ bằng
    lời trong khi trò chuyện chiếm chưa đến 35%, còn hơn 65% thông tin được trao đổi
    nhờ giao tiếp không lời” [Dẫn theo 24, tr. 9].
    Phần lớn các nhà nghiên cứu cho là kênh bằng lời dùng để truyền đạt thông
    tin, trong khi các kênh không bằng lời dùng để “thảo luận”. Vì vậy khi một tín hiệu
    bằng lời không trùng khớp với kí hiệu không lời thì người ta trông đợi vào những
    thông tin không lời nhiều hơn để nhận biết ý định và thông tin thực sự của người
    đối thoại.
    Trong hệ thống giao tiếp không lời, cử chỉ là một phương tiện đặc trưng, tập
    trung phản ánh nhiều thông tin sinh động nhất của con người. Thậm chí, có những
    tình huống cử chỉ là công cụ giao tiếp duy nhất
    Khi xét về ngôn ngữ cử chỉ, bàn tay là một mã giao tiếp phong phú nhất.
    Krout [31, tr. 149] đã xác định được khoảng 5.000 kiểu cử chỉ khác nhau của bàn
    tay diễn tả các cung bậc rất tinh tế của tình cảm và thái độ con người. Do vậy, việc
    nghiên cứu ý nghĩa của các cử chỉ nói chung và cử chỉ bàn tay nói riêng là lĩnh vực
    thu hút nhiều nhà nghiên cứu.
    Với những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài “Những vấn đề cơ bản của ngôn
    ngữ cử chỉ”. Như vậy, đề tài sẽ mang những ý nghĩa sau:
    - Về mặt lí luận: Đề tài vận dụng lí thuyết của Kí hiệu học để giải thích về
    mặt kí hiệu của cử chỉ và lí thuyết Tâm lý học giao tiếp làm rõ các sắc thái biểu cảm
    của con người trong mỗi cử chỉ.
    - Về mặt thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn hi vọng sẽ là tài liệu
    tham khảo có ích cho những ai quan tâm đến vấn đề này.

    2. Lịch sử nghiên cứu vần đề

    2.1. Khái quát


    Trong lịch sử của loài người, các nhà nghiên cứu nhận thấy vai trò của cử
    chỉ, điệu bộ trong giao tiếp là vô cùng quan trọng.
    Tác giả Marr [Dẫn theo 11, tr. 28] khẳng định ngôn ngữ cử chỉ tồn tại cách
    đây một triệu đến một triệu rưỡi năm còn ngôn ngữ âm thanh chỉ có cách đây năm
    vạn đến năm mươi vạn năm. Theo ông, ngôn ngữ cử chỉ có thể biểu thị tư tưởng,
    khái niệm hình tượng hóa, có thể dùng làm công cụ giao tiếp giữa các thành viên
    trong cùng một bộ lạc và với cả các bộ lạc khác, có thể là công cụ phát triển khái
    niệm của mình.
    Còn Phi Tuyết Hinh [13] cho rằng trước khi “ngôn ngữ âm thanh” bắt đầu
    hình thành (khoảng 5000 hay 4000 trước công nguyên) thì cử chỉ điệu bộ chính là
    thứ ngôn ngữ cổ xưa nhất của loài người. Những khai quật khảo cổ học đã chứng
    Ở Úc có một bộ lạc thổ dân mang tập tục một phụ nữ nếu chồng bị chết thì phải im lặng trong bốn năm.
    Trong thời gian này, người phụ nữ chỉ có thể dùng cử chỉ để “nói” với người xung quanh
    minh điều đó. Ở Mê-hi-cô, người ta đã tìm thấy những bức tranh tường, những đồ
    gốm, trên đó, có thể hình dung được cách đây hàng ngàn năm, những người Indien
    Maia “nói với nhau bằng điệu bộ” như thế nào: ngón trỏ của tay phải chỉ ra phía
    trước để hỏi “mấy?”. Bàn tay trái chỉ vào tai để bảo “hãy cẩn thận”, “hãy chú ý”
    hoặc “hãy nghe”. Bên cạnh đó, người ta nêu giả thuyết là lối chữ viết, hình vẽ của
    những người Mê-hi-cô xưa rất phức tạp, chủ yếu là một thứ ngôn ngữ điệu bộ.Như
    vậy, ngôn ngữ cử chỉ có từ rất xa xưa.
    Cùng quan điểm với hai tác giả trên, Erika Fischer - Lichte [9, tr.112] nhận
    định: “Việc nghiên cứu những kí hiệu động tác (ngôn ngữ cử chỉ - Luận văn) có một
    lịch sử dài lâu - nó bắt đầu từ thời Aristoteles”. Trọng tâm các mối quan tâm chủ
    yếu là những kí hiệu được thực hiện bởi đôi bàn tay, được đề cập một cách hết sức
    chi tiết qua môn hùng biện. Người ta đã không ngừng tiến hành những cuộc thử
    nghiệm, tìm ra những mã “tự nhiên” của kí hiệu bàn tay và ghi nhận lại. Sau đó, bộ
    môn nghiên cứu khoa học các động tác lấy xuất phát điểm chính từ luận đề về tính
    hiệu lực chung của ngôn ngữ động tác.
    Tuy nhiên, việc chối bỏ luận đề này đã mở đường cho nghiên cứu một cách
    có hệ thống những kí hiệu động tác, trong tư cách một hệ thống sản sinh ý nghĩa.
    Trong công trình Kí hiệu học sân khấu: nghệ thuật và điện ảnh của mình, Fischer
    Lichte Erika [Dẫn theo 9, tr. 114 -115] đã đề cập đến 3 tác giả sau:
    (1) Người đầu tiên là Wilhelm Wundt (nhà dân tộc học trong khu vực tiếng
    Đức) trong tác phẩm 10 tập đồ sộ của ông về Tâm lí các dân tộc. Chương thứ hai về
    Ngôn ngữ điệu bộ trong tập một mang tựa đề Ngôn ngữ của tác phẩm này, được
    xuất bản năm 1900, thuật lại những cuộc tranh cãi quan trọng nhất về kí hiệu động
    tác trong thời gian trước khi xuất hiện môn nghiên cứu ứng xử và giao tiếp hiện đại.
    Nó cũng đồng thời thể hiện quá trình thử nghiệm đầu tiên, phân loại và hệ thống
    hóa kí hiệu động tác một cách khoa học. Với những luận cứ và dẫn chứng thuyết
    phục, Wundt đã cố gắng chứng minh sự phụ thuộc của những động tác đối với nền
    văn hóa.
    (2) Cũng mang tính mở đầu kỉ nguyên như vậy, trong vòng ảnh hưởng của
    nền văn hóa Pháp là những kết quả nghiên cứu của Marcel Mauss, được tác giả tóm
    tắt và giải thích trong bản thuyết trình về Những kĩ thuật cơ thể, báo cáo năm 1934
    và xuất bản năm 1935. Trong tác phẩm này, Mauss đã trình bày rằng, không phải
    chỉ những động tác trao đổi và thể hiện mà thậm chí cả những kĩ thuật của cơ thể
    như ngủ, nghỉ ngơi, chuyển động, chăm sóc cơ thể, ăn uống, vv trong mỗi một
    nền văn hóa đều được thực hiện khác nhau bởi vì những động tác thực hiện chúng
    đều mang tính đặc thù của nền văn hóa.
    (3) Tác phẩm thứ ba, cuối cùng đã chứng minh một cách quyết định tính sai
    lầm của luận đề hiệu ứng chung là cuốn sách Gesture, Race and Culture của David
    Efron, xuất bản lần đầu năm 1941. Với tác phẩm tiên phong này, Efron muốn phản
    lại những kết luận được bộ máy tuyên truyền phân biệt chủng tộc của chủ nghĩa
    phát xít dựng ra và truyền bá rộng rãi, rằng giống người Do Thái chỉ dựa trên những
    điều kiện dân tộc của họ đã chuyển động khác. Ông đã nghiên cứu những người dân
    xứ Nam I-ta-li-a cũng như những người Do Thái phương Đông tại New York những
    động tác thông dụng nhất. Cùng kết qủa nghiên cứu này, Efron chứng minh rằng
    những động tác có thể được học hỏi giống như những ngôn ngữ, rằng chúng không
    hề xuất phát từ xu hướng bẩm sinh hoặc từ những chương trình theo thuyết quyết
    định.
    Ngoài ra, trong dân gian có chuyện kể rằng: tu sĩ người Pháp Charles Michel
    de I’Epée (1712 - 1789) một lần trú mưa trong một ngôi nhà có hai chị em sinh đôi
    vừa câm vừa điếc. Ông thấy, bằng những cử chỉ hai chị em trao đổi với nhau rất
    chính xác những điều mà họ muốn diễn tả. Điều này đã gây ấn tượng rất mạnh tới tu
    sĩ I’Epée. Từ đó, ông mày mò sáng tạo ra thứ ngôn ngữ cử chỉ, dùng bàn tay và
    ngón tay cho những người câm điếc [5, tr. 158].
    Nhìn chung, ngôn ngữ cử chỉ thịnh hành vào thế kỉ XIX và đầu thế kỉ XX.
    Những người chủ trương thuyết này cho rằng ban đầu khi mà ngôn ngữ của loài
    người chưa phát triển, để giao tiếp với nhau người ta dùng tư thế của thân thể và của
    tay. Nhưng về thành tựu nghiên cứu “Giao tiếp không lời” nói chung và “Ngôn ngữ
    cử chỉ” nói riêng mang tính chất sâu và rộng thì còn khiêm tốn so với các ngành
    khoa học khác. Theo Pease Allan nghiên cứu, cuối thế kỷ 20 đã xuất hiện nhiều nhà
    khoa học - xã hội học mới - chuyên gia trong lĩnh vực giao tiếp không lời. Tác giả
    nhận định: “Tưởng chừng như là vô lý là - trong một triệu năm tiến hóa của loài
    người, các quan điểm giao tiếp không bằng lời chỉ mới bắt đầu được nghiên cứu
    nghiêm túc mang tính hệ thống khoa học từ những năm 60, và xã hội bắt đầu biết
    đến sự tồn tại của chúng chỉ sau khi Julius Fast công bố cuốn sách của mình vào
    năm 1970” [24, tr. 8]. Cuốn sách tổng kết những nghiên cứu về các phương diện
    giao tiếp không bằng lời do các nhà khoa học - hành vi học tiến hành trước năm
    1970.
    Hơn ba thập kỷ gần đây, ngôn ngữ cử chỉ đã và đang được giới nghiên cứu
    trong và ngoài nước quan tâm, tìm hiểu. Theo tài liệu chúng tôi được biết, tính đến
    nay, đề tài này đã có những công trình tiêu biểu ở trong và ngòai nước như sau:

    2.2. Những nghiên cứu tiêu biểu

    2.2.1. Những nghiên cứu ở nước ngoài


    Vấn đề ngôn ngữ cử chỉ đã sớm được một số nhà nghiên cứu nổi tiếng ở
    nước ngoài quan tâm như: Fast Julius (1971), Gerand J. Nierenbegr & Henry
    H.Calero (1971), Pease Allan (1981), Pease Allan & Barbara (2004), Fischer Lichte
    Erika (1994), Roger E. Axtell (2003), Harry Collis (2000) Luận văn xin điểm qua
    những nét chính trong lí thuyết của các tác giả trên:
    (1) Fast Julius [41] với công trình Body language - được coi là tác phẩm
    tiêu biểu đầu tiên quan tâm đến lĩnh vực ngôn ngữ cơ thể, tác giả đã phân tích các
    nội dung khá phong phú gồm 11 chương như: The body is the message, the
    wonderful world of touch, the silent language of love, body and language: use and
    abuse
    (2) Gerard J. Nierenberg và Heney H. Calero [10] khai thác cử chỉ dưới góc
    độ trạng thái tâm lí: cởi mở, tự vệ đánh giá, nghi ngờ, sẵn sàng, dè dặt, hợp tác,
    giận dữ
    (3) Pease Allan [24] phân tích mỗi thành tố ngôn ngữ cử chỉ một cách riêng
    biệt như: cử chỉ của lòng bàn tay, cử chỉ của bàn tay và cánh tay, cử chỉ của bàn
    tay kết hợp với khuôn mặt, dấu hiệu của ánh mắt Tác giả đã khảo sát những cử chỉ
    này chủ yếu là ở những nền văn hóa của cộng đồng châu Âu và được rất nhiều độc
    giả đón nhận. Và đến năm 2004, Pease Allan & Barbara [25] đã trở thành hai
    chuyên gia hàng đầu trên thế giới trong lĩnh vực giao tế nhân sự và ngôn ngữ cử chỉ.
    Họ đã cho ra đời công trình Cuốn sách hoàn hảo về ngôn ngữ cơ thể bao gồm 19
    chương với nhiều nội dung đa dạng kết hợp hình ảnh minh họa, trình bày rất chi
    tiết. Chẳng hạn: quyền lực nằm trong tay bạn, điều kì diệu của nụ cười và tiếng
    cười, dấu hiệu của cánh tay, những khác biệt về văn hóa, 13 điệu bộ phổ biến mà
    bạn nhìn thấy mỗi ngày
    (4) Fischer Lichte Erika [9] dưới góc độ kí hiệu học sân khấu đã miêu tả Kí
    hiệu học của những hoạt động không lời bao gồm: kí hiệu nét mặt, kí hiệu động tác
    và kí hiệu động tác có chuyển đổi trong không gian. Trong đó, tác giả đánh giá: “Kí
    hiệu động tác đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với sân khấu. Có thể tồn tại sân
    khấu không có ngôn ngữ, không có âm thanh, không có hóa trang, không có trang
    trí, không có đạo cụ và ánh sáng, song không thể tồn tại một sân khấu hoàn toàn từ
    bỏ những chuyển động cơ thể của diễn viên, tức là những kí hiệu động tác” [9, tr.
    110].
    (5) Roger E. Axtell [34] đã công bố quyển sách “Gesture - The Do’s and
    taboos of body language around the world” (Cử chỉ những điều nên làm và nên
    tránh trong ngôn ngữ cử chỉ khắp thế giới). Tác giả đã chia ra thành 6 chương với
    những nội dung đi từ khái quát đến cụ thể như sau: sức mạnh của cử chỉ, những cử
    chỉ phổ biến nhất, các cử chỉ từ đầu đến chân, cử chỉ tối hậu, những cử chỉ quan
    trọng cần nhớ và danh mục cử chỉ từng quốc gia.
    (6) Harry Collis [42] trình bày một phần về Body Language (ngôn ngữ hình
    thể) trong quyển sách 101 American Customs (101 phong tục Mỹ) với những cử chỉ
    như: Shaking Hands (bắt tay), The “OK” Sign (cử chỉ “OK”), Thumbs Up - Thumbs
    Down (cử chỉ giơ ngón cái lên và xuống), The High Five (hai người đánh lòng bàn
    tay vào nhau)

    2.2.2. Những nghiên cứu ở trong nước

    Ở Việt Nam, bắt đầu từ những năm 90 của thế kỉ trước, vấn đề ngôn ngữ cử
    chỉ cũng bắt đầu được nghiên cứu. Sau đây, người viết xin giới thiệu những nét cơ
    bản của các tác giả: Trần Tuấn Lộ (1993), Nguyễn Văn Lê (1996), Nguyễn Thiện
    Giáp (2005, 2007), Minh Đức và Nam Việt (2007), Đặc biệt là hai nhà nghiên
    cứu Nguyễn Đức Dân (2006) và Nguyễn Quang (2008).
    (1) Trần Tuấn Lộ [20] đã giới thiệu tới người học giáo trình “Tâm lý học
    giao tiếp”. Trong tài liệu này, tác giả có trình bày khái lược về “Ngôn ngữ, cử chỉ,
    cử động và hành động trong giao tiếp”.
    (2) Nguyễn Văn Lê [18] trong tài liệu Giao tế nhân sự - Giao tiếp phi ngôn
    ngữ chủ yếu chọn lọc, biên tập và giới thiệu 14 bài làm hay của thí sinh thuộc
    trường Đại học Tổng Hợp TP.Hồ Chí Minh. Sau đó, đến năm 1999, trong Nhập
    môn khoa học giao tiếp [19], ông đã dành trọn một chương viết về Sự giao tiếp phi
    ngôn ngữ. Ông phân loại giao tiếp phi ngôn ngữ bao gồm: nét mặt, tư thế, cử chỉ,
    khoảng cách, trang phục, giao tiếp bằng đồ vật, khung cảnh tự nhiên và khung cảnh
    xã hội.
    (3) Nguyễn Thiện Giáp [11, tr. 26-29] đã xem Thuyết ngôn ngữ cử chỉ là
    một trong những giả thuyết về nguồn gốc của ngôn ngữ. Nội dung này đã được mở
    rộng thành Những yếu tố phi lời trong hội thoại [12, tr. 90-93]. Ông đánh giá:
    “Những yếu tố phi lời xuất hiện song song với các tín hiệu bằng lời, hòa lẫn với các
    tín hiệu bằng lời, cùng với các tín hiệu bằng lời hình thành nên một hệ thống giao
    tiếp trọn vẹn” [12, tr. 93]. Tuy nhiên, đây cũng chỉ mới là một vấn đề mới, bước
    đầu được quan tâm xem xét trong những công trình nghiên cứu của tác giả.
    (4) Minh Đức và Nam Việt [7] trong tác phẩm Ngôn ngữ của bàn tay có đề
    cập tới: lịch sử bàn tay, vai trò giao tiếp của tay nhưng nội dung trọng tâm chủ
    yếu là trình bày nhận biết vận mệnh của con người căn cứ vào cấu tạo của bàn tay,
    đường chỉ tay.
    (5) Nguyễn Đức Dân [5] trong công trình nghiên cứu Kí hiệu học - một số
    vấn đề cơ bản đã trình bày phần Ngôn ngữ cử chỉ trong chương Biểu tượng và
    những kí hiệu phi ngôn ngữ là một đối tượng của Kí hiệu học. Tác giả đề cao sức
    mạnh của ngôn ngữ cử chỉ - thứ ngôn ngữ không lời trong giao tiếp nói chung, phân
    tích những yếu tố ảnh hưởng đến cử chỉ và xác định có những ngôn ngữ cử chỉ khác
    nhau Công trình này đặt nền móng cho việc đưa kí hiệu trở thành một môn khoa
    học thực sự ở Việt Nam.
    (6) Nguyễn Quang [31] trong quyển sách Giao tiếp phi ngôn từ qua các
    nền văn hóa” đã phân tích khá chi tiết Giao tiếp phi ngôn từ thông qua cận ngôn
    ngữ và ngoại ngôn ngữ. Tác giả chia ngoại ngôn ngữ thành 3 loại: ngôn ngữ thân
    thể, ngôn ngữ vật thể và ngôn ngữ môi trường. Trong Ngôn ngữ thân thể bao gồm:
    nhãn giao, diện hiện, đặc tính thể chất, cử chỉ, tư thế, hành vi động chạm .Có thể
    nói, tại Việt Nam, Giao tiếp phi ngôn từ qua các nền văn hóa của Nguyễn Quang là
    công trình nghiên cứu rất đáng ghi nhận. Nguyễn Thiện Giáp đánh giá: “Công trình
    này cần được truyền bá rộng rãi và cần được sử dụng làm tài liệu cho học viên cao
    học và nghiên cứu sinh ngành ngôn ngữ học. Đồng thời, nó cũng là tài liệu tham
    khảo rất bổ ích cho tất cả những ai quan tâm đến ngôn ngữ, giao tiếp và văn hóa”
    [31, tr. 15].
    Bên cạnh những công trình nghiên cứu trực tiếp, còn có những tác phẩm đề
    cập đến một các gián tiếp như:
    - Thế nào là cử chỉ văn minh của AĐôrôkhốp [1] năm 1982 (Nguyễn Tam
    Cường dịch) miêu tả và định hướng cho con người những cử chỉ nào là đúng và sai
    để hành xử cho phù hợp nơi công cộng.
    - Ngôn ngữ bí ẩn của cơ thể (Decoding the secret language of your body) của
    Rush Martin [35] trình bày với 4 chương cơ bản sau: lời than thở thì thầm của cơ
    thể, những tiếng rên rỉ lớn hơn, cơ thể của phụ nữ nói thay cho tâm trí họ, những
    tiếng kêu thét của phụ nữ Tác giả đã mô tả cách thành công chữa trị bằng tâm lý ở
    những bệnh nhân của mình. Nhưng ông còn muốn khái quát rộng hơn với thiện chí
    đề ra phương cách phòng ngừa chung các bệnh tật, thậm chí cách tự nâng cao sức
    khỏe nói chung.
    Ngoài ra, còn một số bài viết được đăng trên các tạp chí, trang web đã nghiên
    cứu nhiều khía cạnh khác nhau của ngôn ngữ cử chỉ:
    - Trên các tạp chí:
    + “Lời chào với cái bắt tay với nụ cười”, Hoàng Tuệ , Ngôn ngữ (2), năm
    1984.
    + “Bước đầu tìm hiểu giá trị thông báo của cử chỉ, điệu bộ ở người Việt
    trong giao tiếp”, Thục Khánh Ngôn ngữ, (3), năm 1990.
    + “Từ những cái bắt tay ở Giơnevơ tháng 7/1954”, Thạch Anh, Quan hệ
    quốc tế, (21), năm 1991.
    + “Thử tìm hiểu về ngôn ngữ cử chỉ, điệu bộ”, Phi Tuyết Hinh , Ngôn ngữ,
    (4), năm 1996.
    + “Ngôn ngữ cử chỉ trong dạy học ngoại ngữ”, Nguyễn Qúy Mão, Nghiên
    cứu giáo dục, (299), năm 1997.
    + “Ánh mắt có thể gây chết người”, Quang Duy, Việt Nam và Đông Nam Á
    ngày nay, (13), năm 1999.
    + “Cử chỉ - thứ ngôn ngữ không lời”, Nguyễn Đức Dân, “Kiến thức ngày
    nay” (353), năm 2000.
    + “Hình dáng điệu bộ của cấp dưới cũng là điều quan trọng”, P.H, Khoa
    học và công nghệ, (17), năm 2004.
    + “Cử chỉ trong giao tiếp”, Nguyễn Quang, Khoa học xã hội và nhân văn,
    Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn TPHCM, (42), năm 2008.
    + v.v
    - Trên các trang web:
    + “Thử đọc ý nghĩ qua ngôn ngữ cơ thể”, trên http://www.vnexpress.net,
    ngày 25/4/2006.
    + “Ngôn ngữ cơ thể mạnh hơn cả lời nói”, trên http://www.nld.com.vn,
    ngày 12/3/2007.
    + “Giao tiếp phi ngôn ngữ”, trên http://www.doanhnhansg, ngày 2/4/2008.
    + “Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ cơ thể trong giao tiếp”, trên http://www.
    muabancongty.com, ngày 15/4/2008.
    + “Bị từ chức vì có cử chỉ cắm sừng”, trên http://www.baomoi.com, ngày
    6/7/2009.
    + v.v
    Ở trên, luận văn đã điểm qua một số công trình nghiên cứu có liên quan đến
    giao tiếp không lời, ngôn ngữ cử chỉ và ngôn ngữ của bàn tay. Nhìn chung, các
    công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài là những người đặt nền móng cho
    đề tài Ngôn ngữ cử chỉ nói chung với nhiều nội dung và dẫn chứng sinh động nhưng
    chưa cung cấp một cách có hệ thống những quan điểm lí luận. Cùng đề tài này, các
    tác giả Việt Nam đã tiếp thu kế thừa, bước đầu miêu tả trên bình diện Kí hiệu học và
    Tâm lý học giao tiếp. Qua những công trình nghiên cứu đó, chúng tôi nhận thấy
    những vấn đề cơ bản của ngôn ngữ cử chỉ nói chung và của người Việt nói riêng
    vẫn còn quá khiêm tốn. Vì vậy, trên cơ sở kế thừa và phát triển thành tựu đã có,
    luận văn tiếp tục nghiên cứu sâu hơn về những vấn đề cơ bản của ngôn ngữ cử chỉ,
    gắn liền với giao tiếp hàng ngày của người Việt.

    3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu

    Với đề tài này, chúng tôi muốn làm sáng tỏ những quan điểm lí luận về một
    loại hình của ngôn ngữ không lời và những cử chỉ phổ biến trong giao tiếp hàng
    ngày của người Việt, đặc biệt tìm hiểu những cử chỉ của bàn tay.
    Như vậy, luận văn sẽ giải quyết những nhiệm vụ sau:
    - Xác định khái niệm, tầm quan trọng và phân loại giao tiếp không lời và
    những cử chỉ giao tiếp.
    - Khảo sát những cử chỉ phổ biến trong giao tiếp hàng ngày của người
    Việt.
    - Tập trung khai thác về ngôn ngữ cử chỉ bàn tay.
    Do điều kiện có hạn nên luận văn chỉ tập trung vào những vấn đề cơ bản của
    ngôn ngữ cử chỉ trong giao tiếp của người bình thường, chỉ đi sâu vào phần trọng
    tâm của những cử chỉ phổ biến trong giao tiếp hàng ngày của người Việt và khai
    thác các cách thức và ý nghĩa biểu hiện những cử chỉ của bàn tay.

    4. Phương pháp nghiên cứu

    - Phương pháp hệ thống: Người viết đọc tài liệu, các bài viết có liên quan
    trực tiếp và gián tiếp đến đề tài. Trên cơ sở tiếp thu ý kiến của các nhà nghiên cứu
    ngôn ngữ cử chỉ, người viết rút ra những luận điểm, luận cứ nhằm làm sáng tỏ vấn
    đề cần trình bày.
    - Phương pháp miêu tả: Dựa vào nguồn gốc, đặc điểm và kết qủa khảo sát
    của những cử chỉ để miêu tả cách thức và nội dung biểu hiện của chúng.
    - Phương pháp đối chiếu: Phương pháp này được sử dụng để tìm hiểu
    những nét tương đồng và dị biệt trong các hình thức và ý nghĩa thể hiện của các
    ngôn ngữ cử chỉ mang tính văn hóa, nghề nghiệp, vị thế xã hội, độ tuổi, giới tính
    Ngoài ra, trong quá trình thực hiện, người viết sẽ sử dụng thêm các phương
    pháp hỗ trợ khác: giải thích, điều tra, khảo sát tùy theo yêu cầu của từng nội dung
    cụ thể.

    5. Cấu trúc luận văn

    Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, phần nội
    dung gồm có 3 chương:

    Chương 1: Chương này tóm tắt quan điểm của các nhà nghiên cứu tiêu biểu
    trong và ngoài nước như Gerand J. Nierenbegr & Henry H.
    Calero, Pease Allan và Barbara, Fischer Lichte Erika, Roger E.
    Axtell, Trần Tuấn Lộ, Nguyễn Văn Lê, Nguyễn Đức Dân,
    Nguyễn Quang về vấn đề giao tiếp không lời và ngôn ngữ cử
    chỉ. Đây là chương làm tiền đề cho việc miêu tả và khảo sát về
    những cử chỉ phổ biến trong giao tiếp hàng ngày của người Việt.

    Chương 2: Chúng tôi đề cập đến những cử chỉ thường gặp trong giao tiếp
    hàng ngày của người Việt, đã ổn định về giá trị biểu thị và đã trở
    thành chuẩn mực giao tiếp trong những tình huống cụ thể, bằng
    cách khai thác nội dung và hình thức thể hiện của chúng. Dựa
    vào kết qủa khảo sát thực tế và những lớp cử chỉ cơ bản đối lập,
    người đọc có thể thuận lợi trong việc so sánh, tìm ra những điểm
    tương đồng và khác biệt rất đa dạng và phong phú của ngôn ngữ
    cử chỉ. Đó là những cử chỉ hợp tác và bất hợp tác, những cử chỉ
    thương yêu và giận dữ, những cử chỉ vui vẻ, hài lòng và buồn
    chán, thất vọng.

    Chương 3: Chương này khai thác về bàn tay - phương tiện biểu hiện tiêu
    biểu nhất của ngôn ngữ cử chỉ. Những cử chỉ tiêu biểu liên quan
    đến các bộ phận của bàn tay như bàn tay, cánh tay và ngón tay.
    Chúng tôi kết hợp việc miêu tả hình thức thể hiện, nội dung ý
    nghĩa và hình ảnh để làm sáng tỏ thêm nhiều giá trị thông tin
    giao tiếp của ngôn ngữ bàn tay.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...