Tiểu Luận Những nguyên lý cơ bản của cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài và áp dụng xây dựng Luật trọn

Thảo luận trong 'Luật Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    168
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Trong một hình thái kinh tế - xã hội, pháp luật là yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng, do vậy pháp luật phải xuất phát từ thực tế và phải dựa trên những quy luật khách quan của các quan hệ xã hội mà chúng hướng đến điều chỉnh. Thực tiễn pháp luật Việt Nam đã cho thấy, nhiều quy định của pháp luật sau khi ban hành đã không được thực hiện do pháp luật không phù hợp với thực tế cuộc sống. Pháp luật trọng tài thương mại ở Việt Nam sẽ chỉ phát huy hiệu quả cao nhất nếu được ban hành phù hợp với những nguyên lý cơ bản của cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Việc sửa đổi Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003 đòi hỏi chúng ta phải cùng nhìn nhận và phân tích những nguyên lý cơ bản của cơ chế giải quyết tranh chấp này.
    1. Nguyên lý về tính chất tư trong hoạt động xét xử của trọng tài
    Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là phương thức theo đó các bên thỏa thuận lựa chọn một chủ thể không phải là tòa án giúp mình giải quyết tranh chấp đã phát sinh. Chủ thể được lựa chọn gọi là trọng tài và sẽ ra phán quyết về tranh chấp giữa các bên có liên quan. Có hai loại trọng tài là trọng tài vụ việc (ad-hoc) và trọng tài thường trực. Điểm khác biệt cơ bản giữa hai mô hình này là ở chỗ, trọng tài vụ việc chỉ được thành lập khi phát sinh tranh chấp và sẽ tự giải thể khi tranh chấp được giải quyết xong. Trong khi đó, trọng tài thường trực - như chính tên gọi của nó - tồn tại có tính chất ổn định, có trọng tài viên riêng, có điều lệ và quy tắc tố tụng riêng. Trọng tài thường trực là một thực thể pháp lý độc lập với đầy đủ các dấu hiệu của một pháp nhân, trong đó dấu hiệu quan trọng nhất là có tài sản riêng và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của chính mình. Việc lựa chọn hình thức trọng tài nào để giải quyết tranh chấp hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của các bên. Tuy nhiên, dù là trọng tài thường trực hay trọng tài vụ việc thì đều không phải là cơ quan thuộc bộ máy nhà nước, do vậy trong hoạt động xét xử, trọng tài không được sử dụng quyền lực công như tòa án. Chính vì hoạt động xét xử của trọng tài không gắn với quyền lực công nên trọng tài được coi là cơ quan tài phán tư.
    Với tư cách là cơ quan tài phán tư thì điều quan trọng cần xem xét là trọng tài có hoạt động vì mục đích lợi nhuận hay không. Trả lời câu hỏi này cần quay trở lại với bản chất của trọng tài. Trọng tài được lập ra nhằm mục đích giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại và có thể giải quyết cả các tranh chấp dân sự khác. Tổ chức trọng tài hoạt động xét xử mang tính chất chuyên nghiệp nên sự tồn tại của nó hoàn toàn phụ thuộc vào doanh thu từ hoạt động xét xử (phí trọng tài). Nói cách khác, trọng tài là một tổ chức kinh tế được lập ra để kinh doanh dịch vụ xét xử. Với quan điểm này thì rõ ràng trọng tài hoạt động vì mục đích lợi nhuận, tức là đổi lại việc thu phí từ khách hàng - là các bên tranh chấp, trọng tài cung cấp dịch vụ xét xử và bảo đảm cho chất lượng của dịch vụ ấy tốt nhất thông qua việc bảo đảm tính khách quan, công bằng, vô tư với chi phí thấp, thủ tục đơn giản và độ bảo mật cao khi tiến hành xét xử. Vì vậy, có thể coi tổ chức trọng tài chính là một chủ thể kinh doanh tồn tại dưới dạng doanh nghiệp cung ứng dịch vụ xét xử. Nhận diện đúng yếu tố này sẽ giúp cho việc quản lý nhà nước đối với trọng tài trở nên phù hợp và hiệu quả hơn.
    Hơn nữa, trọng tài là một phương thức giải quyết tranh chấp lựa chọn dựa trên sự thống nhất thỏa thuận của các bên nên cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thực hiện theo nguyên tắc bình đẳng, thỏa thuận giữa các bên tranh chấp. Nguyên tắc này làm phát sinh hai yêu cầu: thứ nhất, ở chừng mực mà các thỏa thuận không trái pháp luật và đạo đức xã hội thì Nhà nước phải thừa nhận những thỏa thuận đó. Thứ hai, pháp luật phải bảo đảm đến mức tối đa cơ hội cho các bên thỏa thuận về phương thức giải quyết tranh chấp. Bảo đảm hai yêu cầu này chính là sử dụng phương pháp điều chỉnh bình đẳng, thỏa thuận của ngành luật dân sự và luật kinh tế - một tiêu chí đã và đang được sử dụng để xác định ngành luật theo lý thuyết về phân định ngành luật ở Việt Nam hiện nay.

    TÀI LIỆU
    (1) GS.TSKH. Đào Trí Úc, Những vấn đề cơ bản của Luật Trọng tài, Bài trình bày tại Hội thảo “Góp ý vào Dự thảo I Luật Trọng tài thương mại” do Hội Luật gia Việt Nam tổ chức ngày 10 - 11/7/2008 tại Hà Nội.
    (2) STAR - Vietnam, Bình luận về Dự thảo Luật Trọng tài, Bài phát biểu tại Hội thảo “Góp ý vào Dự thảo I Luật Trọng tài thương mại” do Hội Luật gia Việt Nam tổ chức ngày 10 - 11/7/2008 tại Hà Nội.
    (3) STAR -Vietnam, Bình luận về Dự thảo Luật Trọng tài, Bài phát biểu tại Hội thảo “Góp ý vào Dự thảo I Luật Trọng tài thương mại” do Hội Luật gia Việt Nam tổ chức ngày 10-11/7/2008 tại Hà Nội, tr. 18.
    (4) Điều 407 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định về hợp đồng theo mẫu như sau: “1. Hợp đồng theo mẫu là hợp đồng gồm những điều khoản do một bên đưa ra theo mẫu để bên kia trả lời trong một thời gian hợp lý; nếu bên được đề nghị trả lời chấp nhận thì coi như chấp nhận toàn bộ nội dung hợp đồng theo mẫu mà bên đề nghị đã đưa ra.
    2. Trong trường hợp hợp đồng theo mẫu có điều khoản không rõ ràng thì bên đưa ra hợp đồng theo mẫu phải chịu bất lợi khi giải thích điều khoản đó.
    3. Trong trường hợp hợp đồng theo mẫu có điều khoản miễn trách nhiệm của bên đưa ra hợp đồng theo mẫu, tăng trách nhiệm hoặc loại bỏ quyền lợi chính đáng của bên kia thì điều khoản này không có hiệu lực, trừ trường hợp có thoả thuận khác”.
    (5) STAR –Vietnam, Bình luận về Dự thảo Luật Trọng tài, Bài phát biểu tại Hội thảo “Góp ý vào Dự thảo I Luật Trọng tài thương mại” do Hội Luật gia Việt Nam tổ chức ngày 10-11/7/2008 tại Hà Nội, trang 16.
     

    Các file đính kèm:

    • l6-.doc
      Kích thước:
      91.5 KB
      Xem:
      0
Đang tải...