Tiểu Luận Những luận điểm cơ bản của c.mác và ph.ăngghen về hình thái kinh tế xã hội chủ nghĩa và thời kỳ quá

Thảo luận trong 'CNXH Khoa Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    TIỂU LUẬN
    NHỮNG LUẬN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA C.MÁC VÀ PH.ĂNGGHEN VỀ HÌNH THÁI KINH TẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ THỜI KỲ QUÁ ĐỘ TỪ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN LÊN CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN​ A. MỞ ĐẦU​1. Lý do và tính cấp thiết của đề tàiTác phẩm C.Mác và Ph.Ăngghen về hình thái kinh tế xã hội ra đời là cuộc cách mạng trong toàn bộ quan niệm về lịch sử xã hội, là lý luận cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử do Mác xây dựng lên, nó có vị trí quan trọng trong triết học Mác. Luận điểm đó đã được thừa nhận lý luận khoa học và là phương pháp luận cơ bản trong việc nghiên cứu lĩnh vực xã hội. Nhờ có luận điểm về hình thái kinh tế - xã hội, lần đầu tiên trong lịch sử loài người, Mác đã chỉ ra nguồn gốc, động lực bên trong, nội tại của sự phát triển của xã hội, chỉ rõ được bản chất của từng chế độ xã hội. Luận điểm đó giúp chúng ta nghiên cứu một cách đúng đắn và khoa học sự vận hành của xã hội trong giai đoạn phát triển nhất định củng như tiến trình vận động lịch sử nói chung của xã hội loài người.Song, ngày nay, đứng trước sự sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu và quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội thông qua sự tiến hành cải cách của các nước xã hội chủ nghĩa như Cu – ba, Trung Quốc, Việt Nam ., những luận điểm đó đang được phê phán từ nhiều phía, sự phê phán đó không không phải từ kẻ thù của chủ nghĩa Mác mà còn cả một số người đã từng đi theo chủ nghĩa Mác. Họ cho rằng những luận điểm hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác đã lỗi thời trong thời đại ngày nay. Phải thay đổi nó bằng một lý luận khác, chẳng hạn như lý luận về các nền văn minh. Chính vì vậy, làm rõ thực chất những luận điểm về hình thái kinh tế - xã hội, giá trị khoa học và tính thời đại của nó đang một đòi hỏi cấp thiết.Về thực tiễn, Việt nam đang tiến hành công cuộc xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Công cuộc đó đang đặt ra hàng loạt vấn đề đòi hỏi các nhà khoa học trên các lĩnh vực khác nhau phải tập trung nghiên cứu giải quyết. Trên cơ sở làm rõ giá trị khoa học của những luận điểm về hình thái kinh tế - xã hội, việc vận dụng những luận điểm đó vào điều kiện Việt Nam; vạch ra những mối liên hệ hợp quy luật và đề ra các giải pháp nhằm đảm bảo thực hiện thắng lợi công cuộc xây dựng đất nước Việt nam thành một nước giàu, mạnh, xã hội công bằng văn minh cũng là một nhiệm vụ thực tiễn đang đặt ra.Với lý do trên, qua học tập, nghiên cứu 10 tác phẩm kinh điển của Mác – Ăngghen trong học phần Giới thiệu một số tác phẩm kinh điển của C.Mác – PH.Ăngghen về chủ nghĩa xã hội khoa học, em chọn đề tài những luận điểm cơ bản về hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản chủ nghĩa và thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản trong các tác phẩm: “Hệ tư tưởng Đức; Tình cảnh các giai cấp lao động ở Anh theo sự quan sát của bản thân và những nguồn đáng tin cậy – 1845; Tuyên ngông của Đảng cộng sản; Ngày 18 tháng sương mù của Lui Bônapac – 1851; Phê phán cương lĩng Gôta – 1875” làm đề tài nghiên cứu để kết thúc môn học.
    2. Phạm vi và giới hạn nghiên cứu của đề tài
    2.1. Giới hạn về khách thể nghiên cứu: Tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức; Tình cảnh các giai cấp lao động ở Anh theo sự quan sát của bản thân và những nguồn đáng tin cậy – 1845; Tuyên ngông của Đảng cộng sản; Ngày 18 tháng sương mù của Lui Bônapac – 1851; Phê phán cương lĩng Gôta – 1875” của C.Mác và Ph.Ăngghen
    2.2. Giới hạn về đối tượng nghiên cứu: Xuất phát từ yêu cầu của đề tài tiểu luận học phần và thời gian cho phép, trình độ năng lực của bản thân còn hạn chế nên tiểu luận đi sâu nghiên cứu những luận điểm cơ bản của C.Mác và Ph.Ăngghen về hình thái kinh tế xã hội chủ nghĩa và thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản.

    2.3. Giới hạn khảo sát của đề tài
    Dưới góc độ lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học, đề tài tập trung nghiên cứu làm rõ những luận điểm cơ bản, giá trị lịch sử các tác phẩm của C.Mác và Ph.Ăngghen về hình thái kinh tế xã hội chủ nghĩa và thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản trong thời kỳ Công nghiệp hóa – hiện đại hóa.
    Cụ thể, nghiên cứu đề tài trên thông qua nguồn tài liệu thu được từ thực tế; các công trình khoa học đã được công bố; các bài viết trên báo, Văn kiện đại hội Đảng; các thông tin tư liệu thu thập được từ bạn bè và thầy cô giáo.

    3. Tình hình nghiên cứu có liên quan
    Những luận điểm cơ bản về hình thái kinh tế - xã hội được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, hiện nay có rất nhiều tài liệu, các công trình nghiên cứu, các sách báo, tạp chí và nhiều trang website trên mạng internet viết như : Học thuyết kinh tế Cộng sản Chủ nghĩa - Khoa Chủ nghĩa xã hội khoa học của quý Học viện Báo chí và tuyên truyền, giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học. Tư tưởng về Chủ nghĩa cộng sản, về định hướng Xã hội chủ nghĩa trong “ Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” – PGS.TS Vũ Văn Phúc, Báo thông tin chủ nghĩa xã hội – lý luận và thực tiễn - Học viện Chính Trị Quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học. Học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội và lý luận con đường phát triển xã hội chủ nghĩa ở nước ta của TS Phạm Văn Chung - NXB CTQG – Hà nội, 2005. Lý luận hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa của TS Nguyễn Thọ Khang – Hà nội 2012 .
    Bên cạnh những sách báo, tạp chí, thông tin trên internet, với tư cách là học viên em còn được tiếp cận, được học tập, nghiên cứu những tài liệu và trao đổi với giảng viên và học viên về những vấn đề có liên quan đến đề tài.
    Trong các tài liệu này tập trung nghiên cứu những luận điểm cơ bản về hình thái kinh tế xã hội ở điều kiện ra đời và đi sâu vào nghiên cứu giai đoạn Chủ nghĩa xã hội – giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa, và thời kỳ quá độ. Các tài liệu này góp phần thêm cho việc nghiên cứu đề tài. Nhưng do khả năng, thời gian nên em không có điều kiện đi sâu nghiên cứu từng tác phẩm. Tiểu luận này em trọng tâm đi sâu vào nghiên cứu những luận điểm hình thái kinh tế - xã hội chủ nghĩa và thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản của C.Mác và P.Ăngghen trong một số tác phẩm đã học và ý nghĩa của nó trong vận dụng ở nước ta hiện nay.
    4. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
    4.1. Mục tiêu
    - Nghiên cứu đề tài giúp chúng ta thêm phần hiểu rõ về hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác và Ăngghen và áp dụng luận điểm này vào thực tiễn ở nước ta hiện nay.
    - Góp phần tìm hiểu giá trị khoa học của lý luận hình thái kinh tế – xã hội và ý nghĩa lịch sử xã hội trong các tác phẩm cụ thể nêu trên và việc vận dụng nó vào điều kiện nước ta hiện nay.
    4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
    - Tìm hiểu bối cảnh lịch sử, lý do viết tác phẩm; Tiến hành đọc và lược thuật trong tác phẩm; Phân tích và hệ thống hóa những nội dung cơ bản về hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa rồi liên kết các nội dung đó với nhau.
    - Nêu rõ thực chất của lý luận hình thái kinh tế - xã hội và chứng minh lý luận đó vẫn giữ nguyên giá trị.
    - Vận dụng lý luận hình thái kinh tế - xã hội để chứng minh tính tất yếu lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

    5. Đóng góp mới của đề tài
    Nghiên cứu những luận điểm cơ bản của C.Mác và Ph.Ăngghen về hình thái kinh tế Xã hội chủ nghĩa và thời kỳ quá độ từ Chủ nghĩa tư bản lên Chủ nghĩa cộng sản là để đáp ứng yêu cầu cấp thiết của thời đại cả về thực tiễn và lý luận, nhằm đem lại một quan niệm triết học khoa học về sự phát triển xã hội loài người nói chung.
    Do đặc điểm về lịch sử về những quan hệ và thời gian, không phải quốc gia nào củng phải trải qua tất cả các hình thái kinh tế - xã hội theo một sơ đồ chung. Lịch sử cho thấy có những nước đã bỏ qua một hình thái kinh tế- xã hội nào đó trong tiến trình phát triển của mình. Vận dụng điều này vào hoàn cảnh cụ thể ở nước ta hiện nay chúng ta có cơ sở khoa học để chứng minh rằng con đường quá độ lên Chủ nghĩa xã hội bỏ qua Tư bản chủ nghĩa ở nước ta.C.Mác, Ph.Ăngghen là bậc tiền bối của kho tàng lý luận, các ông đã để lại một khối lượng đồ sộ các tác phẩm, điều đó giúp cho chúng ta có thể tìm hiểu và kế thừa những kho tàng lý luận đó. Những tác phẩm kinh điển của hai ông là một nguồn tài liệu rất quý giúp cho chúng ta thấy được giá trị và cần phải học hỏi nhằm củng cố kiến thức giúp cho tôi rất lớn trong con đường học tập của mình, đặc biệt là sẽ giúp cho tôi hoàn thành xuất sắc phần tiểu luận của mình. Vậy qua tiểu luận này thì tôi sẽ học hỏi được rất nhiều từ hai nhà lý luận nổi tiếng và từ thầy cô, bạn bè.
    6. Phương pháp nghiên cứu
    * Phương pháp luận: phương pháp nghiên cứu của đề tài dựa trên các nguyên lý, phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng, đồng thời tuân thủ các nguyên tắc của chủ nghĩa duy vật lịch sử để xem xét, đánh giá vấn đề.
    *Phương pháp chung: logic lịch sử, quy nạp, diễn dịch, phân tích tổng hợp
    *Phương pháp cụ thể: đọc - thu thập - phân loại – xử lý thông tin, lược thuật, tổng thuật, nghiên cứu tài liệu
    7. Kết cấu nội dung
    Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, tiểu luận có kết cấu gồm 4 chương 12 tiết



    B. NỘI DUNG

    Chương 1:
    Tóm tắt tiểu sử C.Mác và Ph. Ăngghen

    1.1. Các Mác:
    C.Mác sinh ngày 5 tháng 5 năm 1818 trong một gia đình luật sư tại Triơ, thành phố Rê-na-ni, thuộc nước Phổ xưa, nay là nước Ðức. Tuy không có khuynh hướng cách mạng nhưng bố của C.Mác là người đánh giá cao phái Khai sáng Pháp thế kỷ XVIII và chế độ dân chủ tư sản được xác lập . Nghề nghiệp, tư tưởng và tình cảm của ông ảnh hưởng rất nhiều đến cuộc đời Mác.
    Năm 1835, Mác tốt nghiệp trung học ở Tơria, vào học ngành luật tại Đại học Tổng hợp Bon. Một năm sau, năm 1836, ông chuyển đến Béc-lin tiếp tục học luật tại Đại học Tổng hợp Béc-lin. Thời gian này, cùng với việc học luật, Mác rất đam mê nghiên cứu triết học, lịch sử, học tiếng Anh, tiếng Italia và dịch những tác phẩm cổ điến sang tiếng Đức.
    Năm 1837, Mác nghiên cứu triết học của Hêghen, tham gia phái “Hêghen trẻ”. Cho đến lúc này, Mác còn là con chiên ngoan đạo và chịu nhiều ảnh hưởng thế giới quan duy tâm của Hêghen.
    Năm 1841, Mác tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Béc- lin, sau đó ông nhận bằng Tiến sĩ Triết học bằng luận án “Sự khác nhau giữa triết học tự nhiên của Đêmôcrit và triết học tự nhiên của Êpiquya”.
    Mác đến Bon định làm phó giáo sư cho trường đại học này, song đây là lúc nhiều giáo sư tiến bộ bị gạt khỏi việc giảng dạy nên Mác từ bỏ ý nghĩ về giảng đường. Ông đến với báo chí, dùng báo chí làm diễn đàn tuyên truyền quan điểm dân chủ - cách mạng của mình. Thời gian này, Mác bắt đầu nghiên cứu triết học của Phoiơbắc.
    Năm 1842, Mác trở thành cộng tác viên rồi biên tập viên của “Nhật báo tỉnh Ranh”. Tháng 11 năm 1842, lần đầu tiên Mác gặp Ăngghen.
    Năm 1843, Mác rút khỏi ban biên tập “Nhật báo tỉnh Ranh”, tham gia xuất bản tạp chí “Niên giám Pháp – Đức” tại Pari. Trong năm này, Mác thành hôn với Gieni phôn Vextơphalen.
    Năm 1844, Mác gặp gỡ các nhà hoạt động chính trị Nga như M.Bacunin, V.Bootskin năm 1844 là năm đánh dấu bước chuyển biến hoàn toàn thế giới quan của Mác, gắn liền với sự thay đổi lập trường giai cấp của ông: từ chủ nghĩa dân chủ - cách mạng chuyển sang chủ nghĩa cộng sản. Lập trường mới của Mác được đánh dấu trong các tác phẩm: Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen, Lời nói đầu “Về vấn đề Do Thái”.
    Tháng 8 năm 1844, Mác gặp lại Ăngghen lần thứ hai tại Pari. Năm 1845, theo yêu cầu của chính phủ Phổ, Mác bị trục xuất khỏi Pari, phải chuyển sang sống ở cxen (Bỉ). Tại đây, Mác tham gia tổ chức Đồng minh những người cộng sản. Khi cách mạng 2-1848 nổ ra, Mác lại bị trục xuất khỏi Bỉ, trở về Pari. Tháng 6-1848, Mác lại bị trục xuất khỏi Pari, phải chuyển đến Luân Đôn. Mác sống ở đây đến cuối đời (14-3-1883).
    1.2. Phriđrich Ăngghen:
    Ăngghen sinh ngày 28 tháng 11 năm 1820, là con trai trưởng của một nhà sản xuất sợi dệt giàu có ở thành phố Bácmen thuộc tỉnh Ranh nước Đức.
    Năm 1837, Ăngghen bỏ học khi chưa học xong năm cuối cùng bậc trung học, Ông bắt đầu làm nhân viên cho hãng buôn của bố ở Bacmen.
    Trong thời gian từ 1838 đến 1841 ông sống ở Bacmen và tự học. Năm 1841, Ăngghen tới Beclin làm nghĩa vụ quân sự và học dự thính ở Đại học Tổng hợp. Năm 1842, hoàn thành nghĩa vụ quân sự, Ăngghen trở về Bacmen. Cùng năm, ông sang Anh để tìm hiểu về việc buôn bán tại xưởng dệt vải ở Manchesto. Trên đường đi, ông ghé thăm tòa soạn “Nhật báo tỉnh Ranh”. Tại đây ông gặp Các Mác lần đầu tiên.
    Cuối tháng 8 đầu tháng 9 -1844, Ăngghen đến Pari gặp Mác. Lần gặp gỡ thứ hai này đã đánh dấu một bước ngoặc trong cuộc đời của Mác và Ăngghen, bắt đầu quá trình cộng tác của hai người.
    Tại Pari, Ăngghen và Mác cùng viết tác phẩm thần thánh. Năm 1845, Ăngghen về Đức xuất bản cuốn Tình cảnh giai cấp công nhân Anh. Mùa xuân 1845, Ăngghen sang Bỉ cùng Mác viết Hệ tư tưởng Đức. Thời gian 1845 – 1847, Ăngghen ở Bỉ tham gia Đồng minh những người cộng sản và viết Những nguyên lý chủ nghĩa cộng sản. Sau đó, Ăngghen cùng Mác viết của Đảng cộng sản năm 1848.
    Tháng 2 – 1848, Ăngghen sang Pari. Đầu tháng 4 – 1848, Mác và Ăngghen cùng một số bạn chiến đấu về Đức trực tiếp tham gia đấu tranh cách mạng. Ngày 3–10–1848, cảnh sát Phổ truy bắt Ăngghen, Ăngghen buộc phải lánh sang Bỉ nhưng lại bị cảnh sát Bỉ bắt và trục xuất. Tháng 1 – 1849, Ăngghen trở về Đức. Ngày 10 – 5 – 1849, Ăngghen tham gia cuộc khởi nghĩa nhân dân ở Enbecphen. Chính phủ Đức trục xuất Mác (16 – 5 – 1849) và ra lệnh bắt giam Ăngghen. Trước tình hình căng thẳng đó, Mác và Ăngghen đều phải rời quê hương. Sau khi Mác mất, Ăngghen hoàn chỉnh và cho xuất bản quyển 2 và quyển 3 của bộ Tư bản. Từ mùa đông 1850 đến mùa thu 1870, Ăngghen đến sống tại Mancheser. Sau đó ông chuyển tới Luân đôn. Ngày 5 – 8 – 1895, Ăngghen qua đời tại đây.

    Chương 2:
    Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa và thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản, cơ sở lý luận, phương pháp luận

    2.1. Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa và thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản:
    Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa là hệ thống tri thức bao gồm những tư tưởng, quan điểm về hình thái kinh tế xã hội Cộng sản Chủ nghĩa được các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin khái quát và phản ánh thành những phạm trù, quy luật. Trước C.Mác và Ăngghen cũng có nhiều người đưa ra những quan điểm về xã hội tương lai như: Owen (Anh), Xanhximong, Phurie (Pháp) các ông cũng chỉ ra xã hội mới phải làm như thế nào để đem lại lợi ích cho đa số, phải xóa bỏ chế độ tư hữu, chế độ sở hữu phải được tổ chức như thế nào có lợi cho toàn xã hội. Đặc biệt Phurie còn chia lịch sử loài người thành bốn giai đoạn, đó là mông muội, dã man, gia trưởng và văn minh. Đây là bước đầu của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội. Chủ nghĩa xã hội mà các ông quan niệm vẫn còn chế độ tư hữu, mang nặng tính không tưởng và sắc thái tôn giáo. Để xây dựng chế độ xã hội mới các ông chủ trương dùng biện pháp hòa bình, tuyên truyền khích lệ. Chỉ đến Mác – Ăngghen thì những quan niệm về xã hội tương lai mới thực sụ trở thành học thuyết và dựa trên những quy luật khách quan, phạm trù và những phương pháp luận mang tính khoa học. Việc sáng lập ra học thuyết hình thái kinh tế - xã hội và học thuyết hình thái kinh tế xã hội Cộng sản Chủ nghĩa là một bước tiến vĩ đại của nhân loại.
    Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa là một trong những nội dung cơ bản quan trọng của Chủ nghĩa Xã hội khoa học. Nó chỉ ra quy luật tất yếu phải tiến tới hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa của loài người. Học thuyết bao gồm các nội dung chủ yếu là nguồn gốc xuất hiện, các điều kiện ra đời, các giai đoạn phát triển và các đặc trưng của xã hội Cộng Sản chủ nghĩa ở trong từng giai đoạn phát triển.
    Đứng vững trên quan điểm duy vật biện chứng, duy vật lịch sử mà C.Mác và Ăngghen đã nghiên cứu và phát hiện ra sự ra đời kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa là một tất yếu. Theo C.Mác vấn đề cơ bản, sâu xa có tính chất quyết định về qua trình vận động phát triển của lịch sử xã hội loài người là cuộc đấu tranh không ngừng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất để giải quyết mâu thuẫn thường xuyên giữa chúng. Thay đổi phương thức sản xuất dẫn đến thay đổi chế độ xã hội, thay đổi hình thái kinh tế - xã hội. Và sự ra đời của hình thái kinh tế xã hội mới bao giờ cũng bắt nguồn từ những yếu tố ít nhiều đã nảy sinh trong lòng hình thái kinh tế xã hội hiện đang tồn tại thai nghén nó. Các nhà kinh điển Mác – Lênin cho rằng: Sự tất yếu ra đời của hình thái kinh tế - xã hội Chủ nghĩa Cộng sản ở ngay trong xu hướng vận động phát triển của mâu thuẫn cơ bản chủ nghĩa tư bản, đó là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa ngày càng cao với chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất .
    Theo quan điểm của các ông, nguồn gốc ra đời của hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa, chính là từ sự phát triển của điều kiện kinh tế xã hội dưới Tư bản Chủ nghĩa. Sự phát triển của công nghiệp làm tư bản chủ nghĩa từ thế kỷ XVIII tạo ra lực lượng sản xuất mang tính xã hội hóa cao. Tính chất xã hội hóa lực lượng sản xuất Chủ nghĩa Tư bản không còn trong giới hạn từng quốc gia, do đó lực lượng sản xuất mâu thuẫn gay gắt với với quan hệ sản xuất Tư bản Chủ nghĩa. Từ đó dẫn đến mâu thuẫn về mặt chính trị giữa hai giai cấp cơ bản trong xã hội lúc đó là giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Như vậy, sự ra đời của Cộng sản Chủ nghĩa là điều kiện tất yếu không thể tránh khỏi có điều kiện kinh tế chính trị chín muồi và giai cấp công nhân là lực lượng phải biết nắm lấy cơ hội đó để thúc đẩy sự ra đời của xã hội mới, lật đổ chế độ tư bản, xóa bỏ sở hữu tư nhân Tư bản Chủ nghĩa.
    Gắn liền với nguồn gốc xuất hiện và điều kiện ra đời, quá trình phát triển của hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa tất yếu cũng là quá trình phải trải qua các giai đoạn phát triển đi dần từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện, mỗi giai đoạn trong đó lại có thể có nhiều thời kỳ, với những nội dung và bước đi cụ thể. Hình thái kinh tế xã hội Cộng sản Chủ nghĩa ra đời trước hết phải trải qua thời kỳ cải biến cách mạng, thời kỳ quá độ chính trị. Hình thái kinh tế xã hội Cộng sản Chủ nghĩa phát triển qua hai giai đoạn: giai đoạn xã hội Xã hội Chủ nghĩa – là giai đoạn thấp của hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa – một giai đoạn vừa thoát thai trong lòng xã hội Tư bản Chủ nghĩa, và giai đoạn cao là xã hội Cộng sản Chủ nghĩa. Về bản chất chủ nghĩa xã hội là đồng nhất, sự khác biệt chủ yếu là ở trình độ chín muồi của những điều kiện kinh tế - xã hội, cùng với nó là những điều kiện về chính trị văn hóa, xã hội. Ở giai đoạn thấp thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động, đến giai đoạn cao thực hiện nguyên tắc phân phối theo nhu cầu. Trong bảy tác phẩm: “Hệ tư tưởng Đức”, “Tình cảnh các giai cấp lao động ở Anh theo sự quan sát của bản thân và những nguồn đáng tin cậy – 1845”, “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản – 1848”, “Ngày 18 tháng sương mù của Lui Bônapac – 1851”, “Phê phán cương lĩnh Gôta – 1875”, C.Mác và P.Ăngghen đã thể hiện những nội dung cơ bản của học thuyết.

    2.2. Cơ sở lý luận và phương pháp luận của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa:
    Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa là một nội dung cơ bản của Chủ nghĩa xã hội khoa học, học thuyết đó có cơ sở và phương pháp luận là những tri thức triết học và kinh tế chính trị học Mác – Lênin, cụ thể là chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư.
    Học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa ra đời chính là để đáp ứng yêu cầu khách quan của thực tiễn và nhận thức đương thời, nhằm chỉ ra quá trình phát sinh và phát triển có quy luật của xã hội loài người trong toàn vẹn tất yếu phải dẫn đến hình thái – xã hội Cộng sản Chủ nghĩa. Điều đó đòi hỏi phải có một hệ thống lý luận khoa học về những quy luật chung nhất của sự phát triển xã hội loài người (bao gồm cả tự nhiên, xã hội và tinh thần), chỉ dựa trên những tri thức chung của khoa học này mới có thể nhận thức được những liên hệ căn bản, phổ biến chi phối quá trình lịch sử nói chung.
    Hình thức nhân thức đó là phép biện chứng duy vật do C.Mác – Ăngghen sáng tạo ra. Đặc điểm nổi bật của phép biện chứng duy vật ấy là nó nhận thức thế giới về bản chất, quy luật hay nói khác đi về mặt lôgic là nhận thức dưới hệ thống khái niệm, phạm trù quy luật chung của nó. Chủ nghĩa duy vật khoa học của Mác chính là ở chỗ nó giải quyết một cách duy vật khoa học vấn đề cơ bản của triết học, tức là nó đã đem lại một quan niệm mới về vật chất dưới hình thức nhận thức khoa học trừu tượng nhất, đó là nhận thức phạm trù. Nhận thức này phản ánh được những thuộc tính căn bản phổ biến của vật chất – thuộc tính tồn tại khách quan, không lệ thuộc vào cảm giác và có thể đem lại cảm giác cho con người. Phép biện chứng duy vật là một bộ phận hợp thành của triết học Mác – Lênin và là khoa học nghiên cứu những quy luật vận động, phát triển chung nhất của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Phép biện chứng duy vật của Mác được hình thành phát triển trong mối liên hệ chặt chẽ với toàn bộ lịch sử của quan niệm duy vật lịch sử. Đặc điểm của sự hình thành duy vật lịch sử nói chung và học thuyết hình thái kinh tế xã hội nói riêng là ở sự xuất hiện của chúng với tư cách là những hệ thống lý luận triết học khoa học. Trong đó những khái niệm, nguyên lý quy luật chung về lịch sử được nêu lên trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Đó là kết quả của sự vận động tư duy lý luận đi từ trừu tượng đến cụ thể, là cái cụ thể trong tư duy lý luận, là hình ảnh lý luận triết học về lịch sử. Và vì thế nó cũng thể hiện một cách tóm tắt quá trình vận động ấy của tư duy. Trong hệ thống lý luận này, những khái niệm quy luật của chủ nghĩa duy vật lịch sử là sự phản ánh những mặt, những mối liên hệ tất yếu của lịch sử hiện thực trong sự phát triển toàn vẹn. Chủ nghĩa duy tâm biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử trong đó có học thuyết hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa đã hình thành và đang ngày càng phát triển.
    Cùng với chủ nghĩa duy vật lịch sử, Mác – Ăngghen đã đi sâu vào nghiên cứu sự vận động của chủ nghĩa tư bản, làm rõ một trong những bản chất của giai cấp tư sản trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa là bóc lột giá trị thặng dư. Với học thuyết giá trị thặng dư Mác và Ăngghen đã luận chứng một cách khoa học nguồn gốc kinh tế, sự diệt vong của Chủ nghĩa Tư bản và sự ra đời của Cộng sản Chủ nghĩa.
    Như vậy với cơ sở lý luận và phương pháp luận khoa học đó, học thuyết hình thái kinh tế xã hội Cộng sản Chủ nghĩa ra đời là một tất yếu, có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển cả về hệ thống lý luận và thực tiễn phát triển lịch sử xã hội loài người. Trong tiểu luận này bản thân chủ yếu tìm hiểu và phân tích năm tác phẩm: “Hệ tư tưởng Đức”, “Tình cảnh các giai cấp lao động ở Anh theo sự quan sát của bản thân và những nguồn đáng tin cậy – 1845”, “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản – 1848”, “Ngày 18 tháng sương mù của Lui Bônapac – 1851”, “Phê phán cương lĩnh Gôta – 1875” để làm rõ nội dung về luận điểm hình thái kinh tế - xã hội Chủ nghĩa và thời kỳ quá độ từ Chủ nghĩa Tư bản lên Chủ nghĩa Cộng sản.

    Chương 3.
    Những luận điểm cơ bản về hình thái kinh tế - xã hội chủ nghĩa và thời kỳ quá độ từ Chủ nghĩa Tư bản lên Chủ nghĩa Cộng sản trong các tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức; Tình cảnh các giai cấp lao động ở Anh theo sự quan sát của bản thân và những nguồn đáng tin cậy – 1845; Tuyên ngôn của Đảng cộng sản;
    Ngày 18 tháng sương mù của Lui Bônapac – 1851;
    Phê phán cương lĩng Gôta – 1875”

    3.1. Khái niệm về hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa:
    3.1.1. Khái niệm về hình thái kinh tế - xã hội:
    Từ học thuyết Mác về hình thái kinh - tế xã hội có thể thấy hình thái kinh tế - xã hội là một hệ thống những yếu tố và những mối liên hệ xã hội phức tạp. Tuy nhiên, đây không phải là những yếu tố và liên hệ bất kỳ, mà là những yếu tố và những mối liên hệ được hình thành một cách tất yếu, lặp đi lặp lại trong những xã hội cụ thể. Hệ thống này có thể được nhìn từ nhiều góc độ khác nhau như: Hệ thống với ba yếu tố và liên hệ cơ bản là lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định, kiểu quan hệ sản xuất phù hợp với nó, kiến trúc thượng tầng được xây dựng trên quan hệ sản xuất đó; Hệ thống những quan hệ xã hội với các loại quan hệ chính là quan hệ vật chất và quan hệ tinh thần, quan hệ sản xuất và các quan hệ xã hội khác nhau; Hệ thống hoạt động xã hội như hoạt động sản xuất, sản xuất vật chất, hoạt động tinh thần, hoạt động xã hội; hệ thống kinh tế xã hội Trong chỉnh thể của nó, hệ thống này chính là chế độ xã hội của các xã hội cụ thể trong một giai đoạn lịch sử. Những mối liên hệ trên quy định tất yếu và tính chung của chế độ xã hội trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Vậy có thể xác định nội dung khái niệm hình thái kinh tế xã hội như sau: Hình thái- kinh tế - xã hội là chế độ xã hội với những yếu tố và những mối liên hệ chung tất yếu, đặc trưng cho các xã hội cụ thể trong một giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử nhân loại nói chung. Hay hình thái kinh tế - xã hội là chế độ xã hội mang tính chất chung tất yếu, đặc trưng cho những xã hội cụ thể trong một giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử nói chung.
    3.1.2. Khái niệm hình thái kinh tế -xã hội Cộng sản Chủ nghĩa:
    Hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa là xã hội có quan hệ sản xuất dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, thích ứng với lực lượng sản xuất ngày càng phát triển tạo thành cơ sở hạ tầng có trình độ cao hơn cơ sở hạ tầng của hình thái kinh tế - xã hội Tư bản Chủ nghĩa. Hình thành kiến trúc thượng tầng tương ứng thực sự là của nhân dân, với trình độ xã hội hóa ngày càng cao.
    Trong các tác phẩm của đề tài mà tác giả tìm hiểu chưa có tác phẩm nào định nghĩa rõ ràng hay là nêu lên khái niệm hoàn thiện về hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa. Tuy nhiên trong quá trình tìm hiểu các tác phẩm chúng ta sẽ thấy rõ được những yếu tố tạo nên nội dung chính của lý luận về học thuyết hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa. Bên cạnh đó là sự phát triển của các lý luận về hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản Chủ nghĩa trong lần lượt các tác phẩm. Tác phẩm ra đời sau có sự tiếp nhận những cơ sở lý luận của tác phẩm trước để hoàn thiện nội dung học thuyết.

    3.2. Những luận điểm cơ bản của C.Mác và Ph.Ăngghen về hình thái kinh tế xã hội chủ nghĩa và thời kỳ quá độ từ Chủ nghĩa Tư bản lên Chủ nghĩa Cộng sản trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”
    3.2.1. Hoàn cảnh ra đời tác phẩm:
    Tác phẩm Hệ tư tưởng Đức được C. Mác và Ăngghen viết từ tháng 9 năm 1845 và hoàn thành về cơ bản vào mùa hè năm 1846, sau đó được bổ sung hoàn thiện tiếp trong vòng 1 năm. Tác phẩm gồm 2 tập nhằm phê phán những tư tưởng sai trái ở Đức lúc bấy giờ qua các đại biểu như L. Phơibắc, B. Bauơ, và m. Stiếcnơ; thông qua đó C. Mác và Ăngghen trình bày quan điểm về chủ nghĩa cộng sản của mình.
    Nguyên nhân ra đời của tác phẩm: Mùa hè năm 1845, L. Phơibắc viết một bài báo công khai tuyên bố mình là người cộng sản. Đến tháng 9 năm đó, một loại tác phẩm của những người tự nhận là “chủ nghĩa xã hội chân chính” được công bố, đặc biệt là những tác phẩm của Brunô Bauơ và Maxơ Stiếcnơ chống lại Phoiơbắc, đồng thời cũng chống lại chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa cộng sản.
    Chính vì thế, C.Mác và Ph.Ăngghen quyết định viết tác phẩm này phê phán những quan điểm của L. Phoiơbắc về chủ nghĩa cộng sản, phê phán quan điểm của Brunô Bauơ và Maxơ Stiếcnơ, quan điểm của những người “chủ nghĩa xã hội chân chính”. Trên cơ sở đó, C. Mác và Ph. Ăngghen trình bày một cách có hệ thống quan điểm duy vật lịch sử và quan niệm về chủ nghĩa cộng sản.
    Trong những năm 1846 - 1847, những cố gắng của C. Mác và Ph. Ăngghen trong việc xuất bản tác phẩm đều không đạt được kết quả do các cơ sở xuất bản từ chối không chịu in tác phẩm. Chỉ có một số chương của tác phẩm được công bố trên các tạp chí. Phần lớn các chương không được xuất bản lúc sinh thời của mác và Ăngghen. Tác phẩm lần đầu tiên được Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lênin liên Xô công bố toàn văn bằng tiếng Đức năm 1932 và bằng tiếng Nga năm 1933.
    3.2.2. Những luận điểm cơ bản về hình thái kinh tế - xã hội trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”:
    Sự hình thành luận điểm hình thái kinh tế - xã hội về quan niệm duy vật về lịch sử với tư cách là những hệ thống lý luận khoa học là một quá trình, được đánh dấu bằng sự ra đời của tác phẩm Hệ tư tưởng Đức (chủ yếu là “chương I.Lphoiơbắc. Sự đối lập giữa quan điểm duy vật và quan điểm duy tâm”) và hoàn thành ở tác phẩm nổi tiếng của C.Mác và Ph.Ăngghen là Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, quá trình này diễn ra trong thời gian từ năm 1846 đến năm 1848.
    Trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” , C.Mác và Ph.Ăngghen đã phát thảo những nét cơ bản trong các khái niệm, nguyên lý, quy luật có liên quan đến quan niệm duy vật lịch sử cũng như học thuyết hình thái kinh tế - xã hội. Học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội được hình thành trong “Hệ tư tưởng Đức” trước hết được xây dựng trên cơ sở quan niệm thể hiện bản chất của chủ nghĩa duy vật lịch sử, thể hiện ở những luận điểm tiêu biểu như “ý thức không bao giờ có thể là cái gì khác hơn là sự tồn tại được ý thức và tồn tại của con người là quá trình đời sống hiện thực của con người” và “không phải ý thức quyết định đời sống mà chính đời sống quyết định ý thức”. Quan niệm duy vật lịch sử ấy soi sáng toàn bộ sự luận giải những vấn đề khác nhau thuộc nội dung học thuyết hình thái kinh tế - xã hội trong tác phẩm này.
    Trong Hệ tư tưởng Đức, quan niệm về con người có một vị trí quan trọng, ở đây con người được quan niệm là cá nhân con người hiện thực, nghĩa là những cá nhân hoạt động trong mội lĩnh vực khác nhau với những quan niệm khác nhau, trước hết là trong hoạt động sản xuất ra đời sống vật chất. Với quan niệm về con người ấy, C.Mác coi đó là điểm xuất phát của nhận thức duy vật lịch sử, do đó học thuyết hình thái kinh tế - xã hội phải được xem xét theo quan điểm, một mặt là sự phản ánh những hình thức, phương thức tất yếu mà nhờ đó các cá nhân duy trì sự tồn tại của họ, mặc khác là sự phản ánh những phương trức, hình thức biểu hiện, khẳng định sự phát triển của chính các cá nhân con người.
    Trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức, C.Mác và Ph.Ăngghen đã phát hiện và nhấn mạnh vai trò vị trí trung tâm của xã hội cộng sản là “sự phát triển tự do, toàn diện của con người, trên cơ sở sự chiếm hữu tư liệu sản xuất các cá nhân được thực hiện bằng sự liên hiệp phổ biến của những cá nhân, làm cho hoạt động của con người ăn khớp với đời sống vật chất. Từ đó cá nhân trở thành cá nhân hoàn thiện, tự giác; những cá nhân không lệ thuộc vào sự phân công lao động, vào sự tha hóa của lao động và các quan hệ xã hội. Chủ nghĩa cộng sản đem lại điều kiện cao nhất cho sự phát triển tự do của mỗi cá nhân con người”
    Có thể thấy rõ điểm nổi bật là việc Mác và Ăngghen đã quán triệt quan điểm của các ông về các quy luật chung của lịch sử xã hội loài người nói chung. Những quy luật chung ấy đã được chỉ ra khi phân tích các mối liên hệ quy định nên những chế độ xã hội cụ thể. Chính sự lập lại của những mối liên hệ ấy ở các chế độ xã hội trong các giai đoạn lịch sử khác nhau đã làm cho chúng trở thành quy luật chung của lịch sử. Do đó, mặc dù C.Mác và Ph.Ăngghen không gọi tên những quy luật tác động trong quá trình lịch sử, nhưng quan niệm của ông về sự phát triển ở đây chính là quan niệm về quá trình phát triển có quy luật lịch sử nói chung. Những quy luật ấy bao gồm: Hình thức giao tiếp phù hợp với trình độ nhất định của lực lượng sản xuất, kiến trúc thượng tầng chính trị, tư tưởng phù hợp với “xã hội công dân” mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, đấu tranh giai cấp trong các xã hội có đối kháng giai cấp, cách mạng xã hội Chính sự tác động biện chứng của những quy luật này đã quy định nguồn gốc, cách thức và xu thế chung, tất yếu của sự phát triển lịch sử tạo thành logíc khách quan của nó, quá trình thay thế nhau theo hướng đi lên của các tổ chức xã hội.
    Có thể khẳng định, Hệ tư tưởng Đức đã đánh dấu sự hình thành về cơ bản học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, nhất là nội dung khoa học của nó với yếu tố và phương diện như đã nêu ra. Tác phẩm ấy chỉ ra rằng nhất định phải dự trên quan niệm khoa học chung nhất về sự phát triển lịch sử, thì mới có thể giải quyết được nhiệm vụ lịch sử trọng đại đang đặt ra cho khoa học lý luận lúc này là nhận thúc khoa học xã hội tư bản chủ nghĩa trong tiến trình chung của lịch sử loài người.
    Tuy nhiên, trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức, Mác và Ăngghen vẫn chưa chính thức tìm được các thuật ngữ chính xác để diễn tả những quan điểm đã rất rõ ràng của mình. Những hạn chế và khiếm khuyết này đã được các ông khắc phục trong các tác phẩm sau đó.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...