Luận Văn Nhu cầu sống độc thân tạm thời của giới trẻ Việt Nam hiện nay

Thảo luận trong 'Xã Hội Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    TÊN ĐỀ TÀI: Nhu cầu sống độc thân tạm thời của giới trẻ Việt Nam hiện nay​
    Information
    PHẦN MỞ ĐẦU
    NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG

    1. Lý do chọn đề tài
    Trong một vài thập kỷ gần đây, lối sống độc thân, kết hôn muộn, đã và đang diễn ra ở các nước phát triển, đặc biệt là Mỹ và các nước phương Tây như Đức, Pháp, Anh v.v .
    Theo như tờ “La Vanguardia”, ngày càng có nhiều người ở độ tuổi thanh niên và trung niên tại các nước phát triển đã chọn lựa cuộc sống độc thân. Kết quả thăm dò của tờ báo này cho thấy tại Mỹ số hộ gia đình do vợ chồng tạo lập giảm từ 80% của những năm 50 của thế kỷ 20 xuống còn 50% những năm đầu thế kỷ 21[1].
    Số người Mỹ không kết hôn đã gia tăng từ năm 1960 khiến cho tỷ lệ sống độc thân thì từ trước đến nay cao chưa từng có. Có 48% phụ nữ không kết hôn so với 44% ở đàn ông. Độ tuổi kết hôn trung bình của nam nữ ở nước này cũng lùi lại. Có thể thấy rõ ràng qua bảng số liệu rằng người Mỹ ngày càng kết hôn muộn hơn trong gần bốn mươi năm qua (1960-1998) thể hiện ở tuổi kết hôn trung bình của nam đã tăng lên 4 tuổi (từ 23 đến 27 tuổi) và của nữ là 5 tuổi (từ 20 đến 25 tuổi).
    Hệ quả là hiện nay, Mỹ là quốc gia có nhiều người sống độc thân nhất - chiếm 58.1% dân số. Ở Mỹ, có 43% người trưởng thành (tương đương với 87 triệu người) tự cho mình là độc thân trong đó chỉ riêng thành phố New Jork, đã có đến 70% dân số sống độc thân[2].
    Sống độc thân hiện nay trên thế giới nhất là châu Âu đang trở thành trào lưu thời thượng. Ỏ Tây Âu, theo Eurostar, số người sống độc thân là 158 triệu, chiếm 55% dân số Irlandia, 50% dân số Phần Lan, 50% dân số Thuỵ Điển, 46% dân số Pháp.
    Tại Pháp, số người sống độc thân đã tăng từ 5 triệu người (năm 1999) lên 14 triệu người (2004)[3]. Ở Tây Ban Nha có 6 triệu người độc thân, trong đó có 26% nam và 18% nữ trong độ tuổi 35 – 39, 13% đàn ông và 10.26% phụ nữ ở tuổi 45-50 sống một mình. Tại một nước có tới 90% số dân theo đạo Thiên chúa như Ba Lan, vẫn có 60% số dân vẫn chấp nhận việc phụ nữ không có chồng mà có con. Số những bà mẹ “một mình” nuôi con đang trở thành lực lượng đông đảo trong xã hội, chiếm tới 15% số gia đình của nước này. Sống độc thân đã trở thành một nhu cầu của con người ở các nước tư bản phát triển[4].
    Các nước Châu Á cũng không nằm ngoài xu hướng này. Trong hơn một thập niên trở lại đây, ngày càng có nhiều thanh niên châu Á chọn cách sống độc thân. Nhật là quốc gia có số thanh niên độc thân ở độ tuổi 20-40 tăng vọt trong hai thập kỷ qua. Theo thống kê của một tờ báo ở Nhật thì có 25% nam và 16% nữ thanh niên ở độ tuổi 30 quyết định sống độc thân và không sinh con. Ở Hàn Quốc, tình hình cũng không có gì khả quan hơn. 50% thanh niên Hàn Quốc chọn cuộc sống độc thân[5]. Xã hội Trung Quốc cũng đang phải đối mặt với cuộc khủng hoảng không kết hôn lần thứ ba trong lịch sử khi hầu hết giới trẻ ở nước này không muốn lập gia đình sớm[6]. Theo thống kê, năm 1991, độ tuổi trung bình của phụ nữ Trung Quốc khi kết hôn lần đầu tiên là 22.2; năm 1996 là 24.2 (riêng Thượng Hải là 25.3 và Bắc Kinh là 25.2)[7].
    Việt Nam là một nước nông nghiệp ở phương Đông, hôn nhân và gia đình từ xưa đến nay vẫn có một ý nghĩa hết sức hệ trọng. Tuổi quy định của nhà nước Việt Nam hiện nay (ghi rõ trong Luật Hôn nhân và Gia đình) nam đủ 20 tuổi, nữ đến 18 tuổi được phép đăng ký kết hôn. Tuy nhiên, những số liệu thống kê của Cục thống kê Việt Nam lại cho thấy tuổi kết hôn trung bình lần đầu của cả nam và nữ ở nước ta trong 15 năm gần đây có xu hướng tăng. Nếu như năm 1989, tuổi kết hôn trung bình lần đầu[8] của nam là 24.3 và nữ là 23.2 thì đến năm 2004, tuổi kết hôn trung bình lần đầu đã tăng lên đáng kể, của nam là 27.3 (ở nông thôn là 26.0 tuổi còn ở thành thị là 28.6 tuổi) và ở nữ là 23.4 (trong đó, ở thành thị là 24 tuổi và nông thôn là 22.9 tuổi).
    Bên cạnh đó, xét tỉ trọng đã từng kết hôn của nhóm tuổi 20-24 tuổi cho thấy nếu như năm 1989 có 36.6% nam và 57.5% nữ đã kết hôn thì đến năm 2004, tỉ trọng này đã giảm xuống, chỉ còn 20.1% nam và 42.7% nữ.

    Việc độ tuổi kết hôn trung bình lần đầu tăng và tỉ trọng kết hôn giảm đi rõ rệt trong vòng 15 năm phản ánh xu hướng kết hôn muộn nhìn chung đang diễn ra ở Việt Nam, đặc biệt là ở các đô thị. Kết quả điều tra biến động dân số và Kế hoạch hoá gia đình năm 2004 đã đi đến kết luận: “ở đâu có mức độ đô thị hoá cao hơn hoặc kinh tế phát triển hơn, ở đó người ta kết hôn muộn hơn; và ở đâu nghèo hơn, thì ở đó người ta lại kết hôn sớm hơn”[9].

    Giáo sư Lê Thi trong một nghiên cứu về Phụ nữ độc thân đã khẳng định: “Một điều đáng lưu ý là ở Việt Nam những người chủ trương sống độc thân không lập gia đình từ lúc trưởng thành đến khi về già rất hiếm hoi và thường có những lý do đặc biệt”[10]. Tuy nhiên, liệu xu hướng kết hôn muộn của giới trẻ Việt Nam hiện nay có phải là một dấu hiệu mở đầu cho một xu hướng mới – xu hướng sống độc thân suốt đời như các nước phát triển hay không? Để trả lời câu hỏi này, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nhu cầu sống độc thân tạm thời của giới trẻ Việt Nam hiện nay”.

    2. Ý nghĩa của đề tài
    2.1 Về lý luận
    - Làm sáng tỏ lý thuyết nhu cầu trong tâm lý học nói chung và trong tâm lý học xã hội nói riêng
    - Tìm hiểu sâu hơn đặc điểm, cách phân loại nhu cầu trên bình diện tâm lý học.
    - Xây dựng khung cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu các mức độ nhu cầu sống độc thân của giới trẻ Việt Nam hiện nay.

    2.2 Về thực tiễn
    - Xác định thực trạng nhu cầu sống độc thân tạm thời trong giới trẻ hiện nay, các mức độ nhu cầu sống độc thân của họ;
    - Xác định những yếu tố tâm lý – xã hội tạo nên nhu cầu sống độc thân tạm thời (kết hôn muộn) của giới trẻ hiện nay;
    - Đưa ra những định hướng nhằm giải toả những rào cản tâm lý đang cản trở giới trẻ đến với hôn nhân.

    3. Đối tượng nghiên cứu
    Nhu cầu sống độc thân tạm thời

    4. Mục đích nghiên cứu
    Nghiên cứu nhu cầu sống độc thân tạm thời của giới trẻ hiện nay nhằm mục đích xác định những yếu tố tâm lý – xã hội ảnh hưởng đến nhu cầu sống độc thân tạm thời của giới trẻ hiện nay.

    5. Khách thể nghiên cứu
    Nghiên cứu được tiến hành trên 220 khách thể trong độ tuổi từ 22 đến 40. Trong đó có 170 khách thể được điều tra bằng cách trực tiếp phát phiếu trưng cầu ý kiến và 50 khách thể được điều tra bằng cách gửi phiếu trưng cầu ý kiến qua thư điện tử.

    6. Phạm vi nghiên cứu
    Do tính chất của đề tài, chúng tôi giới hạn khách thể nghiên cứu là giới trẻ trí thức tại các thành phố lớn là Hà Nội, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh.

    7. Các phương pháp nghiên cứu
    7.1. Phương pháp phân tích tài liệu
    Chúng tôi đã tham khảo các tài liệu trong và ngoài nước có liên quan đến vấn đề nghiên cứu để xây dựng cơ sở lý luận cho việc triển khai nghiên cứu thực tiễn, căn cứ vào các tài liệu tâm lý học, các tài liệu của các ngành xã hội có liên quan như xã hội học, tôn giáo học v.v . để tìm hiểu, đánh giá nhu cầu sống độc thân của giới trẻ. Cụ thể, chúng tôi tiến hành đọc, nghiên cứu phân tích và khái quát hoá các quan điểm, lý thuyết về nhu cầu, các quan điểm, lý thuyết độc thân, các công trình nghiên cứu về nhu cầu và độc thân trước đó, đưa ra giả thuyết khoa học, xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài, tìm ra các phương án thích hợp cho bảng hỏi và kiểm tra các kết quả thu được từ các phương pháp khác.

    7.2. Phương pháp trưng cầu ý kiến bằng bảng hỏi
    Phương pháp này được sử dụng để thu thập những thông tin cần thiết về vấn đề nghiên cứu. Những câu hỏi được xây dựng cho phép đánh giá và xác định được mối quan hệ, liên hệ của các mặt biểu hiện của nhu cầu, các mức độ nhu cầu sống độc thân tạm thời của giới trẻ.
    Trong các câu hỏi của phiếu trưng cầu ý kiến, chúng tôi đã sử dụng đan xen các câu hỏi đóng và các câu hỏi mở. Trong một số câu hỏi đóng cũng có phương án trả lời mở để người trả lời được tự nhiên bày tỏ những ý kiến, quan điểm riêng và bộc lộ những tình cảm, nhu cầu chân thực của bản thân.

    7.3. Phương pháp khai thác thông tin trên mạng Internet
    Qua truy cập các trang web như http://dantri.com, http://vietnamnet.vn, http://google.com.vn, http://ttvnol.com, http://tuoitre.com.vn, http://vnexpress.net, http:// www.docthan.com, chúng tôi đã thu thập được các tài liệu liên quan đến vấn đề độc thân, lịch sử ra đời của lối sống độc thân trong và ngoài nước; các bài viết, các diễn đàn bàn về lối sống độc thân hiện nay trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng.

    7.4. Phương pháp điều tra qua thư điện tử
    Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, đặc biệt là mạng thông tin toàn cầu đã khiến cho con nguời ở khắp mọi nơi trên thế giới xích lại gần nhau hơn. Thông qua những hộp thư điện tử (email), người ta có thể nhận được các thông tin, thư tín của bạn bè, người thân v.v trong thời gian ngắn nhất dù họ đang ở bất cứ đâu. Đồng thời, cùng một lúc, họ cũng có thể gửi một thông tin đến cho rất nhiều người với tốc độ cao và chi phí thấp.
    Từ những ưu điểm nổi bật nói trên của thư điện tử, chúng tôi đã khai thác nó như một phương pháp mới để triển khai đề tài nghiên cứu của mình. Do đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là giới trẻ - những người có điều kiện sử dụng mạng Internet nhiều nhất - nên việc tiến hành bằng phương pháp này càng thuận lợi. Thông qua các diễn đàn về người sống độc thân, chúng tôi đã lấy địa chỉ email của các thành viên trong đó và tiến hành gửi phiếu trưng cầu ý kiến. Vì đây là một phương pháp nghiên cứu mới được ứng dụng lần đầu nên chúng tôi chỉ hạn chế khách thể nghiên cứu là 50 người.
    So sánh phiếu điều tra được phát trực tiếp với những phiếu điều tra qua thư điện tử, chúng tôi nhận thấy có sự khác biệt nhau khá rõ. Những phiếu điều tra qua thư điện tử được trả lời một cách cẩn thận và đầy đủ hơn, đặc biệt là các câu hỏi mở và câu trả lời “vì sao?”. Đây là điều dễ giải thích vì những người trả lời qua email là những người khuyết danh, do đó họ có thể tự do bày tỏ các quan điểm, ý kiến của mình một cách chân thực nhất mà không sợ bị đánh giá. Mặt khác, phiếu trưng cầu ý kiến được lưu giữ trong hòm thư của khách thể nên họ có thể trả lời vào những lúc họ rảnh rỗi, có thời gian suy nghĩ kỹ các vấn đề.
    Thực tế nghiên cứu cho thấy, đây là một phương pháp nghiên cứu mới đem lại hiệu quả rất cao, vừa tiết kiệm thời gian, công sức cũng như các chi phí khác khi đi phát phiếu điều tra trực tiếp, vừa đảm bảo được tính khuyết danh cho người trả lời.

    7.5 Phương pháp lập diễn đàn trên trang web
    Chúng tôi mở 3 chủ đề bàn về vấn đề độc thân qua các diễn đàn trên mạng Internet, chủ yếu là trang web Trái tim Việt Nam (http://ttvnol.com) trong thời gian ba tháng (từ tháng 3 đến tháng 6 năm 2006) để thu thập ý kiến của các trí thức trẻ qua các diễn đàn dành cho người độc thân. Cụ thể đó là các chủ đề: Sống độc thân, là người trẻ, bạn nghĩ sao về quan niệm này?; Bạn đánh giá như thế nào về lối sống độc thân của trí thức trẻ hiện nay?Theo bạn, người độc thân có tính cách như thế nào? . Các chủ đề này đã thu hút rất nhiều người tham gia bàn luận, với nhiều luồng ý kiến phong phú, hữu ích cho đề tài.

    7.6 Phương pháp thống kê toán học
    Chúng tôi sử dụng phần mềm SPSS 13.0 để thực hiện các bước trong việc phân tích thống kê như: liệt kê dữ liệu, lập bảng số liệu, biểu đồ và các thống kê suy luận nhằm chứng minh các giả thuyết bằng các số liệu định lượng và trên cơ sở đó rút ra những kết luận về vấn đề nghiên cứu của mình.

    8. Giả thuyết nghiên cứu:
    1. Lối sống độc thân tạm thời đang trở thành một nhu cầu ngày càng gia tăng trong giới trẻ.
    2. Lối sống độc thân tạm thời của giới trẻ được biểu hiện ở các cấp độ phát triển nhu cầu từ thấp đến cao - từ việc thoả mãn các nhu cầu vật chất tối thiểu đến việc thoả mãn nhu cầu tự hoàn thiện nhân cách con người.

    [1] Độc thân - mốt sống của giới trẻ hiện đại. Vietnam.net ngày 23/10/2005

    [2] Độc thân - mốt sống của giới trẻ hiện đại. Vietnam.net ngày 23/10/2005

    [3] Dịch vụ dành cho người độc thân lên ngôi. Tạp chí khoa học công nghệ số tháng 8-9/2005, trang 67

    [4] Độc thân - mốt sống của giới trẻ hiện đại. Vietnam.net ngày 23/10/2005

    [5] Mốt độc thân của giới trẻ châu Á. http:// www.vnn.vn/nhipsongtre/2005/9/79028.vip

    [6] “Khủng hoảng độc thân” tại Trung Quốc. http:// www.vnn.vn/thegioi/2006/04/556865/

    [7] Gái Trung Quốc ngày càng kén chọn. http://vnexpress.net ngày 12/04/2006

    [8] Lê Thi. Phụ nữ độc thân ở Việt Nam. NXB KHXH, Hà Nội 2004, trang 23

    [9] Cục thống kê Việt Nam. Điều tra biến động dân số và KHHGĐ 1/4/2004: Những kết quả chủ yếu. trang 36.

    [10] Lê Thi. Phụ nữ độc thân ở Việt Nam. NXB KHXH, Hà Nội 2004, trang 28.



    PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

    1. Kết luận
    - Những người trẻ đang sống độc thân tạm thời hiện nay trong nghiên cứu này phần đông là nam giới. Đa số họ là những thanh niên trẻ có độ tuổi từ 26 đến 30 tuổi, có trình độ học vấn đại học và sau đại học. Mức thu nhập tương đối dao động từ 1.5 triệu đến mức trên 5 triệu, nhưng tập trung nhiều nhất trong khoảng từ 3- 5 triệu (25.6%). Nhìn chung họ có khả năng độc lập về mặt kinh tế.
    - Đặc điểm tính cách nổi bật của những người trẻ đang sống độc thân tạm thời là “Trẻ trung, vui tươi” nhưng vẫn là những người “nhạy cảm, sâu sắc” trong suy xét các vấn đề.
    - Những người trẻ sống độc thân tạm thời hiện nay cho rằng tình trạng sống độc thân là xu hướng chịu ảnh hưởng của “mốt sống độc thân” của thanh niên các nước phát triển
    - Thực trạng sống độc thân tạm thời hiện nay của giới trẻ là xuất phát từ chính nhu cầu, mong muốn, nguyện vọng của chính họ.
    + Việc sống độc thân tạm thời góp phần làm thoả mãn nhu cầu vật chất, muốn kéo dài tuổi thanh xuân, sự trẻ trung vui tươi và có điều kiện tích luỹ kinh tế, đảm bảo một cuộc sống đầy đủ cho hiện tại và cả trong tương lai.
    + Việc sống độc thân tạm thời làm cho những người trẻ cảm thấy được an toàn, họ không bị vướng bận bởi chuyện gia đình khi còn trẻ, đồng thời có nhiều cơ hội để lựa chọn bạn đời, tránh những sai lầm không đáng có. Mặt khác, sống độc thân tạm thời sẻ tạo ra nhiều cơ hội cho họ phấn đấu sự nghiệp.
    + Quan niệm coi trọng vấn đề tình cảm trong tình yêu và sự đánh giá cao tính thiêng liêng quý giá của tình yêu khiến cho giới trẻ có nhu cầu tìm kiếm một tình yêu hoàn hảo theo cách của họ
    + Việc sống độc thân tạm thời tạo điều kiện cho họ có nhiều cơ hội lựa chọn người bạn đời phù hợp.
    + Theo những người trẻ thì việc sống độc thân hiện nay là điều kiện giúp họ tự khẳng định, giữ gìn “cái tôi” cá nhân của mình. Họ không muốn kết hôn sớm vì họ sợ bị trộn lẫn, bị đánh đồng và bị mất đi những giá trị riêng, phải thay đổi thói quen, nếp sống của mình là điều mà trí thức trẻ sợ khi tiến đến hôn nhân.
    + Nhu cầu tự khẳng định mình, nhu cầu phát triển cá nhân là biểu hiện cao nhất của việc sống độc thân tạm thời. Theo nhận xét, đánh giá của giới trẻ thì cuộc sống độc thân hiện nay của họ đem lại khá nhiều lợi ích, trong đó cái lợi lớn nhất là được sống độc lập, tự do, không bị phụ thuộc vào người khác. Đồng thời, còn là cơ hội để cho họ tiếp tục học lên cao, phấn đấu một sự nghiệp vững chắc trong tương lai Tất cả những điều này đều phục vụ cho mục đích cuối cùng là chuẩn bị các điều kiện tốt nhất cho một cuộc hôn nhân hạnh phúc, hạn chế tối đa những rủi ro trong hôn nhân.
    - Đa phần giới trẻ nhận thức rất tốt những “cái được” và “cái mất” của cuộc sống độc thân tạm thời. Họ không lý tưởng hoá cuộc sống gia đình nhưng cũng không hoàn toàn đề cao việc sống độc thân tạm thời hiện tại. Việc đánh giá đúng đắn hai mặt của một vấn đề như vậy, chứng tỏ giới trẻ đã quan tâm một cách nghiêm túc đến vấn đề sống độc thân tạm thời hiện nay của họ.
    2. Kiến nghị
    Sống độc thân tạm thời là một nhu cầu của giới trẻ hiện nay, theo như họ nhận thức, nhu cầu này nếu được thoả mãn sẽ đem lại rất nhiều lợi ích (“cái được”) cho họ. Tuy nhiên, chính những người trong cuộc cũng đã nhận thức rất đầy đủ về những hạn chế của nó (“cái mất”), song họ vẫn lựa chọn vì nó đem lại rất nhiều lợi ích khác nhau, nó thoả mãn được nhu cầu vật chất, nhu cầu an toàn, nhu cầu được công nhận, nhu cầu được tôn trọng và nhu cầu phát triển cá nhân, tự khẳng định mình. Những điều gì sẽ xẩy ra nếu như nhu cầu sống độc thân tạm thời tiến đến thành nhu cầu sống độc thân suốt đời hoặc trở thành “mốt sống”, “thú sống” như ở các nước phát triển hiện nay. Chắc chắn điều này sẽ kéo theo một loạt vấn đề như ngày càng ít trẻ em được ra đời, tháp dân số chênh lệch, lực lượng lao động thì nhiều mà người già và trẻ em thì ít, giá trị hôn nhân bị đánh mất, một lối sống “gấp”, sống cho riêng mình, sống chỉ biết hưởng thụ sẽ ra đời v.v
    Để thoả mãn nhu cầu sống độc thân tạm thời của giới trẻ nhưng không phát triển thành nhu cầu sống độc thân suốt đời, chúng tôi xin đưa ra một số kiến nghị sau:
    - Nhu cầu sống độc thân được xem như là quyền lựa chọn của mỗi cá nhân. Tuy nhiên, quyền này cần gắn với nghĩa vụ về hôn nhân và gia đình. Vì người sống độc thân không bao hàm nghĩa là sống cô độc, không có người yêu. Vì vậy cần nâng cao ý thức trách nhiệm của họ với người họ yêu.
    - Có các biện pháp ngăn chặn tình trạng sống thử, sống không hôn thú – đây là một hình thức bào mòn nhanh nhất giá trị đích thực của tình yêu, hôn nhân, gia đình.
    - Hiện nay, xuất hiện một hình thức tìm hiểu mới đó là tìm hiểu nhau qua mạng Internet. Nếu hình thức này được áp dụng một cách đúng đắn sẽ phát huy hiệu quả rất cao, tuy nhiên đây còn là vấn đề cần được nghiên cứu sâu hơn ở góc độ quản lý mạng để tránh xẩy ra hiện tượng có quá nhiều “tình yêu ảo”.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...