Luận Văn Nhìn nhận lại vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong giai đoạn phát triển mới

Thảo luận trong 'Quản Trị Kinh Doanh' bắt đầu bởi Linh Napie, 2/12/13.

  1. Linh Napie

    Linh Napie New Member

    Bài viết:
    4,057
    Được thích:
    5
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    NHÌN NHẬN LẠI VAI TRÒ CỦA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TRONG GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN MỚI










    1. Hai mươi năm đổi mới tổ chức sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước:


    Quá trình đổi mới và sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước(DNNN) ở Việt Nam được tiến hành từ đầu thập niên 1990 và qua nhiều giai đoạn, gắn liền với quá trình đổi mới thể chế kinh tế, trong đó nổi bật là chủ trương xây dựng các tổng công ty (90 và 91) năm 1994; ban hành Luật DNNN năm 1995; tiến hành cỗ phần hóa một bộ phận lực lượng DNNN từ năm 1996 ( thí điểm từ năm 1993); thí điểm tổ chức tập đoàn kinh tế nhà nước năm 2005 vv .


    Quá trình trên có thể chia làm 4 giai đoạn : (1) giai đoạn 1991-1993: nhiệm vụ trung tâm của giai đoạn này là chấn chỉnh và tổ chức lại sản xuất kinh doanh của khu vực kinh tế quốc doanh; khắc phục hiện tượng thành lập xí nghiệp quốc doanh tràn lan ở các ngành và các địa phương trong giai đoạn 1986- 1990.(Hai văn bản pháp lý quan trọng để điều chỉnh nhiệm vụ tổ chức và sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước là: Quyết định số 315/HĐBT và Nghị định 388/HĐBT);(2) giai đoạn 1994-1997:Nhiệm vụ trọng tâm của giai đoạn này là tổ chức lực lượng doanh nghiệp nhà nước thành các Tổng công ty nhà nước giữ vai trò chủ lực của lực lượng DNNN; đồng thời sắp xếp lại, đa dạng hóa sở hữu các DNNN có quy mô nhỏ; xóa bỏ dần chế độ chủ quản cấp trên của doanh nghiệp nhà nước.(Khung pháp lý điều chỉnh là Quyết định số 90/TTg, số 91/TTg về tổ chức các Tổng công ty nhà nước; Chỉ thị số 500/TTg của Thủ tướng Chính phủ về sắp xếp tổng thể các DNNN; Nghị định số 28/CP về cổ phần hóa DNNN).Đánh dấu của giai đoạn này là sự ra đời của các Tổng công ty nhà nước hoạt động theo mô hình mới và phân biệt rõ hai loại hình doanh nghiệp nhà nước: doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh và doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích; (3)giai đoạn 1998-2001:Tiếp tục củng cố và sắp xếp lại DNNN theo tinh thần Nghị quyết TW 3( khóa VIII), nổi bật của thời kỳ này là thực hiện mạnh mẽ quá trình cỗ phần hóa DNNN;thực hiện cơ chế giao, bán, khoán, cho thuê;củng cố các Tổng công ty nhà nước; áp dụng các biện pháp để lành mạnh hóa tài chính ;(4) Giai đoạn từ năm 2001 đến nay:tổ chức mô hình tổng công ty đầu tư tài chính nhà nước, tiếp tục CPH DNNN và nổi bật là chủ trương tổ chức thí điểm các Tập đoàn kinh tế nhà nước (từ năm 2005 đến 2010).


    Nhìn chung qua 4 giai đoạn thực hiện quá trình đổi mới và sắp xếp lại lực lượng DNNN đã đạt được những kết quả đáng kể:giảm nhanh về số lượng ( từ khoảng 12.000 DN vào năm 1991 giảm còn khoảng 1500 DN hiện nay); chuyển đổi sở hữu phần lớn các doanh nghiệp nhỏ.Số lượng giảm nhưng quy mô tài sản và vốn chủ sở hữu tăng lên hàng chục lần so với thời kỳ đầu trước khi tổ chức

    lại; xây dựng được nhiều DNNN có quy mô lớn, có vai trò và vị trí quan trọng đối với nền kinh tế nước ta.Tuy nhiên, tính đến thời điểm 1.7.2010, khi Luật DNNN hết hiệu lực, mục tiêu tổ chức sắp xếp lại DNNN đề ra đã không đạt được : tiến trình CPH bị trì trệ; nhiều DNNN độc lập hoặc Tổng công ty nước cần CPH, chuyển đổi loại hình doanh nghiệp mang tính hình thức từ công ty nhà nước thành Cty TNHH một thành viên ( mà bản chất vẫn như cũ); hiệu quả sử dụng các yếu tố sản xuất ( đất đại, tiền vốn, nguyên vật liệu ) kém hơn các loại hình doanh nghiệp khác; lực lượng DNNN đang chiếm giữ một nguồn lực rất lớn của nền kinh tế, nhưng sự đóng góp cho nền kinh tế hoàn toàn không tương xứng, xét về tỷ trọng đóng góp cho GDP ( khoảng 27-28% GDP), giải quyết việc làm .hay vai trò "con sếu đầu đàn" dẫn dắt nền kinh tế.


    Bên cạnh đó cơ chế quản lý vẫn còn nhiều bất cập như: quyền quản lý nhà nước đối với DNNN; vai trò của chủ sở hữu hoặc người đại diện chủ sở hữu; quyền chủ động điều hành sản xuất, kinh doanh của DN; vai trò và cơ chế trách nhiệm, quyền lợi của Hội đồng quản trị hoặc Hội đồng thành viên; chuyển cơ chế giao vốn sang cơ chế đầu tư vốn; cơ chế tài chính và cơ chế phân phối lợi nhuận của doanh nghiệp;gắn lợi ích vật chất với trách nhiệm của người quản lý và đội ngũ lao động v.v chưa được chế định rõ ràng bằng một đạo luật.


    2. DNNN là công cụ để nhà nước hạn chế, bổ sung những khuyết tật
    của thị trường, chứ không phải tồn tại vì nó.


    2.1. Về lý luận cũng như thực tiễn cho thấy, không phải lúc nào thị trường cũng đúng trong việc phân bố nguồn lực của nền kinh tế; sự thất bại của thị trường sẽ mang đến những hệ quả nghiêm trọng đối với nền kinh tế, tạo nên những cuộc khủng hoảng kinh tế; đặc biệt là ở những quốc gia đang trong giai đoạn CNH.


    Thực tế ở Việt Nam trong những năm gần đây với các cơn “sốt” nhà đất, chứng khoán, lương thực, thực phẩm là minh chứng rõ nét về sự thất bại của thị trường trong việc phân bố nguồn vốn đầu tư, làm méo mó thị trường, lãng phí nguồn lực xã hội. Về thuộc tính của kinh tế thị trường, cho đến nay vẫn bộc lộ 3 khuyết tật lớn:(1) Luôn luôn có nguy cơ mất cân đối cung - cầu tạo ra các cuộc khủng hoảng thừa hoặc khủng hoảng thiếu;(2) Vì mục tiêu lợi nhuận và cạnh tranh, doanh nghiệp ít quan tâm đến lợi ích toàn cục, lợi ích cộng đồng như gây ô nhiễm, phá hoại môi trường, trốn tránh luật pháp, gian lận thương mại v.v là những điển hình;(3) Kinh tế thị trường về bản chất là mô hình làm giàu cho thiểu số; tự nó không thể làm giàu cho mọi người.Những khuyết tật trên, các quốc gia, tuỳ theo điều kiện lịch sử và đặc điểm của mình và tùy theo mục tiêu của nhà nước đó đề ra những công cụ quản lý khác nhau.


    Ngày nay, khi nói đến phát triển bền vững, tức là Nhà nước có chức năng khắc phục 3 khuyết tật của thị truờng nói trên.Nhà nước không bao cấp rủi ro cho doanh nghiệp, nhưng cũng không tạo ra những rủi ro cho doanh nghiệp bằng

    các quyết định hành chính của mình. Hiện nay, hệ thống pháp luật của nước ta trong quản lý kinh tế thị trường, tuy chưa hoàn thiện, nhưng cũng đã phủ kín hầu hết các lĩnh vực. Nhưng thực tế hiệu lực và hiệu quả quản lý Nhà nước về kinh tế chưa cao là do sự can thiệp của Nhà nước, ở nhiều cấp chính quyền khác nhau, không phù hợp với sự vận động của thị trường. Nhưng mặt khác Nhà nước lại thiếu công cụ và cơ chế giám sát, chế tài để bảo đảm các chủ thể tham gia các quan hệ thị trường tuân thủ “luật chơi” đã đề ra.


    Do đó, cùng với công cụ kế hoạch và các chính sách điều tiết vĩ mô, việc thành lập và sử dụng các tổ chức kinh tế của Nhà nước chính là sự bổ khuyết thị trường bằng lực lượng vật chất của Nhà nước. Do đó, vấn đề cải cách Doanh nghiệp nhà nước chính là “tái cấu trúc “ lực lượng này để làm tốt vai trò tham gia bổ khuyết và trên một số ngành và ở thời điểm nhất định để dẫn dắt thị trường, cung cấp tốt hơn các loại “hàng hoá và dịch vụ công cộng” phục vụ mục tiêu CNH và phát triển bền vững. Đây chính là lý do có mặt của DNNN.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...