Tài liệu Nhận định và kiểm soát ban đầu người bệnh cấp cứu

Thảo luận trong 'Y Khoa - Y Dược' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    ĐỀ TÀI: Nhận định và kiểm soát ban đầu người bệnh cấp cứu

    NHẬN ĐỊNH VÀ KIỂM SOÁT BAN ĐẦU NGƯỜI BỆNH CẤP CỨU

    I. MỤC TIÊU
    - Tŕnh bày được các nguyên tắc chính khi tiếp cận và xử trí người bệnh cấp cứu.
    - Tŕnh bày được các nguyên tắc cần tuân thủ để tránh các sai lầm.
    - Rèn luyện kỹ năng thăm khám và cấp cứu người bệnh theo hai bước (primary và secondary).
    - Rèn luyện tác phong khẩn trương và phản ứng theo tŕnh tự.
    II. KHÁI NIỆM VỀ CẤP CỨU
    - Cấp cứu thường được dùng để chỉ các t́nh trạng bệnh nội/ngoại cần được đánh giá và điều trị ngay. Các t́nh trạng cấp cứu có thể là:
    Nguy kịch (khẩn cấp) (critical): người bệnh có bệnh lư, tổn thương, rối loạn đe doạ tính mạng, nguy cơ tử vong nhanh chóng nếu không được can thiệp cấp cứu ngay.
    - Công tác thực hành cấp cứu có nhiệm vụ đánh giá, xử trí và điều trị cho các bệnh nhân có bệnh lư/tổn thương/rối loạn cấp cứu.
    III. CÁC ĐẶC THÙ CỦA CẤP CỨU
    1. Rất nhiều khó khăn, thách thức
    - Hạn chế về thời gian: tính chất bệnh lư cấp cứu diễn biến cấp tính và có thể nâng lên nhanh chóng, do vậy đồi hỏi công tác cấp cứu phải rất khẩn trương thu thập thông tin, đánh giá và đưa ra chẩn đoán, xử trí và can thiệp cấp cứu; Bản thân người bệnh và gia đinhg cũng lo lắng và có xu hướng đ̣i hỏi thực hiện đón tiếp và cấp cứu thật nhanh.
    - Cần đánh giá nhanh và ra quyết định với lượng thông tin hạn chế , chưa đầy đủ: do đ̣i hỏi phải quyết định chẩn đoán xử trí nhanh chóng ngay sau kh tiếp cận người bệnh (ngoài bệnh viện hoặc trong bệnh viện tại khoa cấp cứu) cho nên người bác sỹ và y tá cấp cứu thường phải đưa ra chẩn đoán và quyết định xử trí, chăm sóc dựa vào các thông tin ban đầu sơ bộ, chưa đầy đủ. Đây là một thách thức sự khi phải đưa ra quyết định nhiều khi mang tính chất sống c̣n cho tính mạng hoặc một phần cơ thể của người bệnh trong khoảng thời gian ngắn và chưa có thông tin đầy đủ:
    - Không gian và môi trường làm việc: Môi trường làm việc tại khoa cấp cứu luôn có nhiều áp lực không kể áp lực thời gian; không gian làm việc thường nằm ngay gần cổng bệnh viện, không gian mở thường thông thương với bên ngoài, đông người bệnh, đông người thân của người bệnh và có thể c̣n nhiều đối tượng khác, ḍng người chuyển vừa đông vừa nhanh (người bệnh, người thân của người bệnh, nhân viên ) nên dễ có lộn xộn, nhiều tiếng ôn và khó kiểm soát trật tự, vệ sinh và an ninh.
    - Trong cấp cứu trước khi đến viện, nhân viên y tế có thể phải làm viêck ngoài trời, trong môi trường sinh hoạt không có hỗ trợ về y tế, thời tiết có thể không thuận lợi, đôi khi có thể nguy hiểm ngay cả cho nhân viên y té (cháy nổ, hiện trường tai nạn giao thông )
    - Nhiều lo lằng và dễ bị phân tâm: Người nhân viên y tế có thể phải quan tâm giải quyết nhiều việc khác nhau: tiếp nhận giấy tờ, thủ tục hành chính, trật tự, phân luôn người bệnh Nhiều khi các mối bận tâm này làm người nhân viên y tế khó tập trung vào công tác từ phía người bệnh và người thân của người bệnh cũng có thể làm các nhân viên y tế gặp khó khăn để đảm bảo tuân thủ các quy tŕnh và tiêu chí cấp cứu.
    2. Không nhất thiết chỉ quan tâm t́m chẩn đoán để có điều trị mà đa phần trường hợp yêu cầu cần thiết lại là suy nghĩ để các nhận hoặc loại trừ các bệnh lư rối loạn nặng đe doạ tính mạng hoặc đe doạ bộ phận chi của người bệnh.
    Nhận định và phạn ứng có thể phải tiến hành song song nhiều quy tŕnh (ví dụ vừa cấp cứu vừa hỏi, vừa khám ) c̣n phương pháo tham khám và đánh giá tuần tự, lần lượt từng quy tŕnh có thể lại không phù hợp và nhiều khi là chậm trễ đối với yêu cầu cấp cứu.
    3. Nguy cơ bị quá tải hậu quả là dễ có người bệnh bị bỏ sót (ra viện mà chưa được xem):
    Ḍng người bệnh đến cấp cứu rất thây đổi theo thời điểm trong ngày, giữa ác ngày trong tuần, giữa các mùa và rất khó dự đoán chính xác được ḍng người bệnh cấp cứu. Trên thực tế là thường xuyên có các thời điểm các khoa cấp cứu bị quá tải người bệnh và quá tải công việc. Khi mét khoa cấp cứu bị quá tải lên đến 140% công suất th́ sẽ có nguy cơ bỏ sót người bệnh và sai sót (người bệnh không được cấp cứu kịp thời, có người bệnh ra viện mà chưa được thăm khám đầy đủ )
    4. Tính ứu tiên cấp cứu (giữa các người bệnh; giữa cac động tác , can thiệp, chăm sóc) mà không phải theo thứ từ thông thường:
    Do có nhiều thời điểm bị quá tải nên các khoa cấp cứu sẽ phải triển khai quy tŕnh phân loại người bệnh và các nhân viên cấp cứu sẽ phải rèn luyện kỹ năng phân loại người bệnh và phân loại các công việc, kỹ thuật can thiệp cấp cứu cho phù hợp với yêu cầu ưu tiên cấp cứu. Phản ứng xử lư cấp cứu thưo tính ưu tiên cấp cứu (người bệnh nào cần cấp cứu hơn th́ được khám trước, can thiệp nào cân thiết hơn th́ ưu tiên thực hiện trước ) giúp đảm bảo các người bệnh được tiếp cận cấp ciứi kịp thời tương ứng với t́nh trạng và yêu cầu cấp cứu của từng người bệnh.
    5. Phải tiếp cận và sắp xếp giải quyết khi có người bệnh tử vong
    Tại khoa cấp cứu, nhân viên y tế thường xuuyên phải tiếp nhận, cấp cứu và giải quyết các việc liên quan đến người bệnh ngừng tuần hoàn và tử vong. Khi có người bệnh tử vong, người bác sỹ cấp cứu phải giải quyết nhiều việc: xác nhận tử vong, thông báo và chuẩn bỉ tâm lư cho ngườu thân của người bệnh tử vong Đồng thời người bác sỹ cũng sẽ luôn phải đặt ra các câu hỏi và tim câu trả lời: tại sao người bệnh tử vong ? Người bệnh tử vong có nguy cơ lây bệnh cho người khác (nhân viên y tế, gia đ́nh và người thân ).
    IV. CÁC NGUYÊN TÁC CHÍNH KHI TIẾP NHẬN VÀ XƯT TRÍ NGƯỜI BỆNH CẤP CỨU
    - Một bác sỹ cấp cứu, y tá cấp cứu đang trong ca làm việc cần đảm bảo bao quát để kiểm soát cả bệnh pḥng/ khu vực và tất cả các người bệnh mà ḿnh phụ trách. Điều đó đ̣i ḥi người nhân viên y tế phải rèn luyện kỹ năng quan sát nhanh, phương pháp tổ chức làm việc hợp lư và biết tiết kiệm cũng như phân phối sức lực để đảm bảo cả ca trực.
    - Mét trong các nhiệm vụ khó khăn của bác sỹ cấp cứu là ra phải ra các quyết định, nhất là khi các quyết định đó thường rất quan trọng đến bệnh tật, diễn biến và tính mạng của người bệnh. Các quyết định diều mà các bác sỹ cấp cứu thường phải đối mặt:
    . Trage: người bệnh nào cần được khám trước ?
    . Cần các can thiệp nào để ổn định người bệnh ?
    . Các thông tin nào cần cho chẩn đoán ?
    . Cần các điều trị cấp cứu nào ?
    . Người bệnh có cần nhân viên không? hay có thể ra viện?
    . Thông báo cho người bệnh và gia đ́nh người thân như thế nào?
    . Khi tiếp cận một người bệnh cấp cứu cần tuân thủ các nguyên tắc nhất định để đảm bảo ra được các quyết định nhanh, kịp thời và chính xác nhất có thể, không bỏ sót các cấp cứu, bệnh lư nguy hiểm.
    1. Phân loại ưu tiên
    - Khi tiếp nhận một người bệnh cấp cứu, người nhân viên y tế trước hết cần xác định xem người bệnh có nguy cơ tử vong nguy hiểm không ? Nếu không có nguy cơ tử vong rơ ràng th́ câu hỏi tiếp theo là người bệnh có ǵ bất ổn cần can thiệp ngày không?.
    - Các người bệnh vào cấp ciứi cần được phân loại theo các mức độ ưu tiên để được tiếp nhận cấp cứu cho phù hợp. Có nhiều bảng phân loại khác nhau, nhiều mức độ phân loại khác nhau.
    - Trên thực tế th́ điểm quan trọng nhất là phải xác định xem người bệnh thuộc loại nào trong sè 3 t́nh trạng sau:
    Nguy kịch (khẩn cấp) (critical) : người bệnh có bệnh lư, tổn thương, rối loạn đe doạ tính mạng, nguy cơ tử vong nhanh chóng nếu không được can thiệp cấp cứu ngay. Các người bệnh nguy kịch cần được tập trung cấp cứu ngay, có thể phài huy động thêm cẩ các nhân viên khác cùng đến tham gia cấp cứu.
    Cấp cứu (emergency): người bệnh có bệnh lư, tổn thương, rối loạn mà Ưt có khả năng lên nếu không được can thiệp điều trị nhanh chóng. Các người bệnh cấp cứu cần được tập trung cấp cứu nhanh chóng và theo dơi sát sao, người bệnh cần được đặt trong tầm mắt cảnh giới theo dơi vủa nhân viên y tế.
    Không cấp cứu: người bệnh có các bệnh lư, tổn thương, rối loạn mà Ưt có khả năng tiến triển nặng. đe doạ tính mạng. Các người bệnh không cấp cứu có thể chờ để khám lần lượt sau khi các người bệnh nguy cơ kích/cấp cứu đă được tiếp nhận và tảm ổn định.
    2. Ổn định người bệnh trước khi tập trung vào thăm khám chi tiết
    Cần tiếp cận người bệnh cấop cứu thưo tŕnh tự vừa đảm bảo ổn định người bệnh vừa đảm bảo thăm khám được đầy đủ, không bỏ sót tổn thương.
    Thăm khám cần tiến hành qua 2 bước tuần tự.
    Bước 1 (primary survey); nhận định và kiểm soát ổn định các chức năng sống.
    - Mục tiêu là t́m các rối loạn/tổn thương đe doạ các chức năng sống và thực hiện ngay các can thiệp để đảm bảo ổn định các chức năng sống.
    . Tập trung vào đánh giá và kiểm soát tuần tự ABCD (đường thở, hô hấp, tuần hoàn, thần kinh).
    . Nhanh chóng xác định các tổn thương/rối loạn quan trọng làm ảnh hưởng các chức năng sống và có thể xử trí được ngay: tràn khí màng phổi áp lực, viết thương mạch máu, Đp tim cấp do tràn dịch/máu màng ngoài tim, rối loạn toàn/kiềm máu nặng, rối loạn kali máu, hạ đường máu
    . Thực hiện ngay các điều trị, thú thuật và can thiệp cấp cứu để ổn định các chức năng sống: khai thông đường thở, đặt NKQ, bóp bóng, thở ô xy, đặt đường truyền tĩnh mạch, bồi phụ thể tích, cầm máu, chọc màng phôit, chọc dịch màng ngoài tim. sốc điện chuyển nhịp nhanh
    - Các thông tin về tiền sử, bệnh sử, thuốc đang dùng, xét nghiệp nhanh có thể rát có Ưch cho các quyết định xử trí, tuy nhiên không nên mất nhiều thời gian vào hỏi, thăm khám, làm xét nghiệm/thăm ḍ và không v́ hỏi, tham khám làm xét nghiệm/thăm do mà làm chậm trễ quá tŕnh đánh giá và kiểm soát các chức năng sống
    Bước 2: (seconday survey): thăm khám một cách hệ thống và chi tiết theo tŕnh tự.
    - Mục tiêu là đánh giá đầy đủ các tổn thương/ rối loạn/bệnh lư để có kế hoặch xử trí cấp cứu và xử trí điều trị để hợp lư.
    - Để đảm bảo không bỏ sót các tổn thương, dấu hiệu/triệu chứng .cần tuân thủ nguyên tắc và tŕnh tự thăm khám.
    . Đứng cạnh người bệnh để thu thập bệnh sử.
    . Thăm khám lâm sàng một cách tập trung và liên tực, tránh bị ngắt quăng.
    . Nên thăm khám một cách hệ thống, tuần tự từ đầu đến chân (đầu mặt cổ, ngực, bụng, khung chậu, chỉ, lưng ) và thăm khám hết tất cả các hệ thống cơ quan (thần kinh, hii hấp, tim mạch, bụng và tiêu hoá, thận – tíêt niệu, sinh dục, tai mũi họng. mắt, răng hàm mặt ).
    . Nên tập trung thăm khám kỹ vào các bộ phận liên quan đến các lƯ do chính làm người bệnh đến cấp cứu cũng nh­ tập trung vào tim kiếm các dấu hiệu giúp cho định hướng chẩn đoán.
    . Chỉ nên làm các thăm ḍ, xét nghiệm giúp loại trừ hoặc khẳng định chẩn đoán, hoặc giúp định hướng chuyển/nhập viện người bệnh.
    3. Ra quyết định về chẩn đoán và định hướng xử trí.
    Ưu tiên chẩn đoán và xử trí các rối loạn/tổn thương nguy hiểm và cố gắng chẩn đoán loại trừ các cấp cứu.
    + Người bác sỹ cấp cứu thường xuyên phải tận dụng triệt để lượng thông tin có, xử lư hiểu quả tối đa các thông tin này dựa vào kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm. Một trong các tính chất khoa cấp cứu là xử lư hiệu quả và nhanh chóng đưa ra được các quyết định mà chỉ dựa voà lượng thông tin Ưt ỏi có được,
    + Trong điều kiện áp lực về thời gian và thiếu thông tin, nên tuân thủ một số nguyên tắc nhất định để có thể tiến đến các chẩn đoán và xử trí hợp lư nhất.
    + Chẩn đoán nếu có thể, nếu không có chẩn đoán: chẩn đoán và xử trí các rối loạn/tổn thương nguy hiểm và tập trung vào kiểm soát hoặc loại trừ các cấp cứu.
    - Đưa ra các chẩn đoán bệnh lư cấp cứu nguy hiểm, chẩn đoán nhiều khả năng nhất trước; Người bác sỹ nên tư duy 3 bước:
    . Tính toán và kiệt kê tất các khả năng có thể.
    . Sau đó xác định các nguyên nhân/ tổn thương/rối loạn nào là nguy cơ nặng nề, nguy hiểm nhất và lên kế hoạch chẩn đoán và xử trí theo định hướng này.
    . Xác định xem liệu có các nguyên nhân tổn thương, rối loạn khác cần phải được xử lư không.
    - Tập hợp các thông tin để xác nhận hoặc loại trừ chẩn đoán bệnh cấp cứu nguy hiểm trước, rồi đến các chẩn đoán nhiều khả năng nhất.
    - Tránh chẩn đoán kiểu “chộp được”. Nên t́m chẩn đoán theo sơ đồ cây chẩn đoán (algorithm).
    - Điều trị có thể giúp thêm cho chẩn đoán: đáp ứng với điều trị hoặc ngược lại không đáp ứng với điều cũng đều là các thông tin tốt giúp thêm cho định hướng chẩn đoán.
    - Chỉ nên làm các thăm ḍ, xét nghiệm giúp loại trừ hoặc khẳng định chẩn đoán, hoặc giúp định hướng chuyển/nhập viện người bệnh.
    - Nên sử dụng các quy tŕnh, hướng dẫn xử trí, điều trị cấp cứu để tiết tiệm sức và trí năo trong giờ trực.
    - Nên nỏ ra Ưt nhất 2 -3 phút tập trung suy nghĩ cho mỗi người bệnh.
    4. Định hướng chuyển: vào viẹn/ra viện hay lưu theo dơi
    - Trước một người bệnh cấp cứu, người bác sỹ chắc chắn sẽ phải quyết định xem người bệnh sẽ được bố trí chỗ như thế nào; nhập viện hay ra viện hay lưu theo dơi? Nếu nhập viện th́ cho nhập vào khoa nào? Cho nhập viện ngay hay chê theo dơi thêm?
    - Trong nhiều trường hợp th́ quyết định cho vào viện hay cho ra viện là một quyết định rất khó khăn. Nhất là khi không có sự thống nhất giữa ư đồ của bác sỹ và nguyện vọng của người bệnh/gia đ́nh người bệnh.
    - Để quyết định đỡ khó khắn và giảm thiểu sai sót, rủi ro cần tuân theo một số nguyên tắc hoặc trả lời một số câu hỏi:
    . Người bệnh có cần nằm viện không
    . Nếu cho ra viện: có đủ an toàn cho người bệnh không và cần theo dơi như thế nào?.
    . Để người bệnh lưu lại theo dơi thêm tại khoa cáp cứu nếu chưa có quyết định hoặc c̣n phân vân khi người bệnh/gia đ́nh người bệnh lo lắng.
    . Suy nghĩ cận thận trước khi quyết định. Tránh đưa ra quyết định khi đang căng thẳng hoặc đang cáu giận: tạm dừng lại trấn tính vài phút rồi sau đó mới quay lại giải quyết tiết và quyết định.
    V. CÁC NGUYÊN TẮC ĐỂ TRÁNH SAI LẦM
    - Tránh rào cản lớn nhất đối với chẩn đoán đúng: chẩn đoán trước đó.
    - Tránh bị ảnh hưởng bởi suy nghĩ của người khác: bị nhiều chẩn đoán và nhiễu từ người khác (bias).
    - Chó ư đến các dấu hiệu sống, các nghi chép cỉa tuyến trước và nghi chép của y tá.
    - Tránh “gập” hồ sơ vào quá sớm, khi mà chưa có chẩn đoán rơ ràng: cần cho người bệnh vào danh sách chưa có chẩn đoán hoặc chẩn đoán chưa rơ ràng và có cảnh báo, theo dơi thích hợp.
    - Thận trọng vào các thời điểm nguy cơ cao: khi người bệnh kư để ra sớm, khi đông ngươi bênh, giờ cap điểm hoặc thời điểm mệt mỏi.
    - Thận trọng với nhóm người bệnh nguy cơ cao: lang thang, nghiện rựu, nghiện thuốc, bạo lực bị lạm dụng, rối loạn tâm thần.
    - Thận trọng với người bệnh quay lại: người bệnh có thể có vavs vấn đề cấp cứu mà chưa được phát hiện hoặc chưa được xử trí đúng. Người bệnh quay lại cũng là cơ hội tốt để chúng ta có thể sửa chữa các sai sót hoặc bỏ sót trong chẩn đoán và xử trí của lần đến cấp cứu trước.
    - Chó ư đến các chẩn đoán quan trọng có nguy cơ cấp cứu cao (cần nghic đến và loại trừ trước ): NMCT, tác động mạch phổi, tắc động/tĩnh mạch, xuất huyết dưới nhện, chảy máu náo ở người bệnh ngộ độc, viêm màng năo, viêm ruột thừa, chửa ngoài tử cụng, xoánh tinh hoàn, chấn thương gân hoặc thần kinh
    - Thận trọng khi thấy có chẩn đoán ra trước đó khong phù hợp (không tương ứng với dấu hiệu, triệu chứng của người bệnh).
    TÀI LIỆU THAM KHẢO

    1. Russell Jones T. Approach to the Emergency Department Patient, In: Current D & T Emergeny Medicine, 2008.
    2. Rosen’s. 2006.
    3. Vũ Văn Định “Nguyên lư cơ bản hồi sức cấp cứu” Hồi sức nội khoa, NXB Y học 2003.
    4. Nhận định và kiểm soát ban đầu người bệnh chấn thương
    BÀI 1: ĐÁNH GIÁ VÀ XỬ TRÍ BAN ĐẦU MỘT NGƯỜI BỆNH CHẤN THƯƠNG.

    I. MỤC TIÊU.
    - Xác định được chính xác các bước cần xử trí trong đánh giá và xử trí người bệnh.
    - Nhận biết dấu hiệu và triệu chứng tắc nghẽn đường thở cấp tính.
    - Mô tả và thực hiện được kỹ thuật thiết lập và duy tŕ đường thở.
    - Nắm rơ được khái niệm đánh giá ban đầu và đánh giá th́ hai.
    - Thực hiện được đánh giá bạn đầu và đánh giá th́ hai trên người bệnh.
    II. ĐẶT VẤN ĐỀ.
    Xử trí người bệnh chấn thương thường là một việc căng thẳng đối với các nhân viên y tế ngay cả ở những môi trương làm việc tốt. Khi xử trí các trường hợp chấn thương, cần xem xét quy tŕnh xử trí một người bệnh gồm 4 giai đoạn sau:
    - Đánh giá ban đầu: Xác định các vấn đề đe doạ tính mạng người bệnh.
    - Hồi sức người bệnh: Xử trí các vấn đề đe doạ tính mạng người bệnh
    - Đánh giá th́ hai: Thực hiện thăm khám toàn thân.
    - Chăm sóc thực thụ; Xử trí toàn diện và xử trí các thương tích củ thể.
    III. ĐÁNH GIÁ BAN ĐẦU
    Quá tŕnh đánh giá người bệnh và thiết lập các ưu tiên trong việc chăm sóc và điều trị phụ thuộc vào t́nh trạng thương tích của người bệnh, các chỉ số sinh tồn và cở chế chấn thương. Các ưu tiên này giống nhau chó tất cả những người bệnh chấn thương bao gồm người lớn, trẻ em, phụ nữ có thai. Ở những người bệnh có các thương tích nghiêm trọng, thứ tự các ưu tiên chăm sóc và điều trị phải dựa vào việc thăm khám tổng thể người bệnh. Các chức năng sinh tồn của người bệnh cần phải được đánh giá một cách nhanh chóng và hiệu quả. Quy tŕnh xử trí một người bệnh bao gồm việc đánh giá ban đầu một cách nhanh chóng, kèm với quá tŕnh hồi sức tích cực để đảm bảo các chức năng sinh tồn, đánh giá th́ hai một cách tỉ mỉ và cuối cùng là tiến hành chăm sóc thực thụ cho người bệnh. Trong cấp cứu chấn thương, quá tŕnh đánh giá phát hiện các thương tổn và xử trí người bệnh được thực hiện theo tŕnh tự ABCDE như sau:
    A (Siway) Duy tŕ đường thở có bảo vệ cột sống cổ.
    B (Breathing) Đánh giá Hô hấp và xử trí các thổn thương ngực gây đe doạ đến tính mạng người bệnh.
    C (Ciculation) Đánh giá Tuần hoàn và kiểm soát chảy máu.
    D (Disability and neurological assessment) Đánh giá t́nh trạng thần kinh và mức độ trị giác: thực hiện thăm khám thần kinh nhanh và phát hiện các tổn thương chiếm chố gây tăng áp lực nội soi,
    E (Exposure) Bộc lộ nạn nhân/kiểm soát môi trường xung quanh: Khám xét toàn thân (cởi bỏ quần áo người bệnh (nếu có thể) để thực hiện việc đánh giá, nhưng tránh làm mất thân nhiệt).
    Trong giai đoạn đánh giá ban đầu, việc phát hiện các tổn thương đr doạ tính mạng người bệnh và tiền xử trí, hồi sức và cấp cứu các tổn thương này cần diễn ra đồng thời (trong ṿng 1 phót).
    1. Y tŕ đường thở và bảo vệ cột sống cổ
    Mọi nỗ lực của nhân viên y tế cần phải tập trung vào việc nhanh chóng phát hiện t́nh trạng suy thở và thiết lập một đường thở an toàn cho người bệnh. Trong đánh giá ban đầu một người bệnh chấn thương, đường thở cần phải được đánh giá trước tiên để xem có thông thoáng không. Giai đoạn đánh giá nhanh này nhằm mục đích phát hiện các đấu hiệu tắc nghẽn đường thở do dị vật, do găy xương mặt, xương hàm dưới, do v́ khí quản/thanh quản.
    1.1. Duy tŕ đường thở
    Các trường hợp tắc nghẽn đường thở phải được phát hiện nhanh chóng và xử trí thích hợp trong giai đoạnh đánh giá ban đầu. Các tiếng thở rít, kḥ khè, thở khàn và dậu hiệu co kéo thành nhực là các dấu hiệu tắc nghẽn đường thở. Việc phát hiện các nguy cơ suy thở tiến triển cũng đặc biệt quan trọng.
    Các phương pháp thiết lập một đường thở thông thoáng cần được thực hiện trong khi cột sống cổ vẫn được bảo vệ. Trước tiên, cần thực hiện các thủ thuật đơn giản nh­ nânn cằm, hay đẩy hàm để giuy tŕ đường thơt. Sau đó dùng ống hút để hút sạch dịch tiết, đờm răi trong đường thở, nên sử dụng ống hút có khẩu kính lớn. Lấy bỏ các dị vật nếu có bằng cách dùng các ngón tay móc vét dị vật hay dùng kẹp. Việc sử dụng các loại canyl đường thơt (ví dụ canyl miệng hầu) có thể cần thiết giúp duy trig và khai thông đường thở ở những người bệnh mất ư thức hay mất phản xạ ho.
    Nếu người bệnh có thể nói được, th́ có thể chắm chắn đường thở chưa bị nguy hiểm ngay. Tuy nhiên , cần tiến hành việc thăm khám đường thở nhiều lần để đảm bảo đường thở thông thoáng, đặc biệt ở những người bệnh có biểu hiện suy hô hấp hay chấn thương hàm mặt. Hơn nữa, những người bệnh chấn thương đầu nghiêm trọng kèm thưo tri giác điểm Glasgow (GCS) < 8 cần được thiết lập đường thơt. Cần thiết lập đường thở cho người bệnh khi thấy có dấu hiệu đáp ứng vận động thiếu chủ định. Xử trí đường thở ở người bệnh nhi đ̣i hỏi nhân viên y tế phải có các kiến thức về giải phẫu ở trẻ em cũng như các dụng cụ hỗ trợ đường thở dành cho trẻ em.

    1.2. Bảo vệ cột sống cổ.
    Khi đánh giá và xử trí đường thở cần thận, chú ư tránh các cử động mạnh cột sống cổ. Đầu và cổ người bệnh không được quá duối hay quá gấp hay quá nhiều trong khi thiết lập và suy tŕ đường thở. Một điều cần chú ư là thăm khám thần kinh có thể không loại trừ được tổn thương cột sống cổ, sau đó sử dụng các thiết bị bất động thích hợp. Nếu các thiết bị bất động cột sống phải tạm thời tháo bằng tay của một nhân viên của nhóm cấp cứu.
    [TABLE]
    [TR]
    [TD]Luôn nhớ: Phải nghi ngờ có tổn thương cột sống cổ bất kỳ ở người bệnh đă chấn thương nào đặc biệt là ở những người bị suuy giảm ư thưc hay bị chấn thương kín ở vị trí trên xương đ̣n.[/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]

    2. Đánh giá hô hấp và xử trí đối với chấn thương ngực có nguy cơ đe doạ tính mạng.
    Bước đàu tiên trong xử trí suy hố hấo ở người bệnh chấn thương là phát hiện các dấu hiệu của t́nh trạng suy hô hấo. Chẩn đoán ban đầu dựa vào đánh giá lâm sàng với các dấu hiệu thông khí kém hay thông khí không hiệu quả.
    2.1. Cơ chế hô hấp và quá tŕnh trao đổi khí.
    Một đường thở toàn vẹn chưa chắc đac đảm bảo thông khí đầy đủ. Quá tŕnh trao đổi khí đ̣i hỏi tăng tối đa băo hoà oxy và thải khí cacbonic. Quá tŕnh thông khí đ̣i hỏi sự toàn vẹn các chức năng của phổi, thành ngực và cơ hoành. Mỗi một thành tố này có được thăm khám và đánh giá một cách nhanh chóng.
    Cấc béc lộ ngực người bệnh để có thể thăm khám được đầy đủ. Nghe phổi để đánh giá t́nh trạng thông khí ở hai phổi. Quan sát chuyển động của thành ngực, xem người bệnh có sử dụng các hô hấp phụ không và đếm nhịp thở. Gơ phổi để xem có khí hay dịch ở trong khoang màng phổi không. Nhin và sờ cũng có thể giúp phát hiện các tổn thương thành ngực gây suy hô hấp.
    2.2. Các chấn thương ngực đe doạ đến tĩnh mạng
    Các chấn thương ngực đe doạ ngay đến tính mạng người bệnh cần được phát hiện và xử trí trong đánh giá ban đầu. Các chấn thương có thể gây suy hô hấp cấp bao gồm tràn khí màng phổi nhiều và tràbn khí màng phổi hở. Các tổn thương này cần được phát hiện trong giai đoạn đánh giá ban đầu. Tràn khí màng phổi hay tràn máu màng phổi Ưt, găy Ưt xương sương và đụng dập phổi nhẹ có thể gây suy hô hấp nhẹ đến vừa và thường được phát hiện trong đánh giá th́ hai.
    Tràn khí màng phổi dưới áp kực và tràn khí màng phổi hở cần được phát hiện và xử trí trong đánh giá ban đầu. Tràn khí màng phổi dưới áp lực gây suy hô hấo và tuần hoàn nghiêm trọng và cáp tính, nếu nghi ngờ phải chọc kim để làm giảm áp lực nghiêm trọng khoang màng phổi ngay. Tràn khí màng phổi hở cũng gây giảm thông khí nghiên trong và cấp tính, cần phải bằng Đp bịt kín tổn thương thành ngực ngay lập tức.
    2. Đánh giá tuần hoàn và kiểm soát chảy máu
    Chảy máu là nguyên nhân phổ biến nhất gây sốc và tử vong ở người bệnh chấn thương. Tử vong có thể pḥng tránh được nếu được xử trí kịp thời và trước và tại bệnh viện. Cần phải cầm máu cho người bệnh càng sớm càng tốt. Chảy máu bên ngoài được cầm bằng Đp bến ngoài trực tiếp. Chảy máu bên trong được cầm bằng các can thiệp phẫu thuật.
    Bước đầu tiên trong xử trí sốc ở một người bệnh chấn thương là phát hiện t́nh trạng sốc. Không có xét nghiệm cận lâm sàng nào có thể quyết định chẩn đoán xác định sốc. Chẩn đoán ban đầu dựa vào các biểu hiện lâm sàng của t́nh trạn tưới máu không đầy đủ cho các cơ quan và thiếu cung cấp oxy cho các mô, chứ không nên chỉ căn cứ vào dấu hiệu tụt huyết áp. Trong chẩn đoán và điều trị sốc, cần căn cứ vào định nghĩa sốc - đó là sự bất thường của hệ tuần hoàn dẫn đến giảm tưới máu tổ chức và cung cấp oxy cho các mô, cơ quan. Mức độ nặng của các dấu hiệu và triệu chứng của sốc tỷ lệ thuận mức độ chảy máu.
     
Đang tải...