Tiểu Luận Nguyên tắc đảm bảo giữ bí mật thông tin của khách hàng trong hoạt động tư vấn pháp luật dân sự

Thảo luận trong 'Luật Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    172
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    CHƯƠNG 1:
    MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VIỆC
    GIỮ BÍ MẬT THÔNG TIN VỀ KHÁCH HÀNG CỦA LUẬT SƯ
    Trong Chương này, tác giả đề cập hai vấn đề chung về việc giữ bí mật thông tin về khách hàng của luật sư. Một là, cơ sở của vấn đề luật sư giữ bí mật thông tin về khách hàng. Hai là, khái niệm giữ bí mật thông tin về khách hàng trong hoạt động nghề nghiệp của luật sư.
    1.1. Cơ sở của vấn đề luật sư giữ bí mật thông tin về khách hàng
    Theo Từ điển tiếng Việt, thuật ngữ “cơ sở” được hiểu là cái làm nền tảng trong quan hệ với những cái xây dựng trên đó hoặc dựa trên đó mà tồn tại, phát triển[1]. Theo nghĩa đó, cơ sở của vấn đề luật sư giữ bí mật thông tin về khách hàng là cái mà luật sư dựa vào đó để thực hiện. Hay nói cách khác cơ sở của vấn đề luật sư giữ bí mật thông tin về khách hàng là câu trả lời của câu hỏi: Luật sư dựa vào đâu, căn cứ vào đâu để thực hiện việc giữ bí mật thông tin về khách hàng?
    Có hai cơ sở cho việc luật sư giữ bí mật thông tin về khách hàng. Đó là cơ sở pháp lý và cơ sở đạo đức và ứng xử nghề nghiệp.
    1.1. 1. Cơ sở pháp lý
    Pháp lệnh Tổ chức luật sư năm 1987
    Pháp lệnh tổ chức luật sư số 2A-LCT/HĐNN ngày 18/12/1987của Hội đồng Nhà Nước (Pháp lệnh tổ chức luật sư năm 1987) là văn bản quy phạm pháp luật tương đối hoàn chỉnh quy định về luật sư và nghề luật sư tại Việt Nam. Cũng chính trong Pháp lệnh này, vấn đề luật sư giữ bí mật thông tin về khách hàng đã được đặt ra.
    Pháp lệnh tổ chức Luật sư năm 1987 quy định việc giữ bí mật thông tin khách hàng là nghĩa vụ của luật sư. Khoản 3 Điều 18 Pháp lệnh tổ chức Luật sư năm 1987 quy định luật sư có nghĩa vụ: “Không được tiết lộ những bí mật mà mình biết được trong khi làm nhiệm vụ giúp đỡ pháp lý”.
    Pháp lệnh Luật sư năm 2001
    Pháp lệnh tổ chức luật sư 1987 đã tạo ra bước ngoặt cho sự phát triển luật sư và nghề luật sư ở Việt Nam. Với sự phát triển đó, Pháp lệnh tổ chức luật sư 1987 đã không còn phù hợp, dẫn đến sự ra đời của Pháp lệnh số37/2001/PL-UBTVQH10 ngày 25/7/2001 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa X về Luật sư (Pháp lệnh Luật sư năm 2001).
    Pháp lệnh Luật sư năm 2001 thay thế Pháp lệnh Tổ chức Luật sư năm 1987 tiếp tục quy định về việc luật sư giữ bí mật thông tin khách hàng. Tuy nhiên, có sự khác biệt nhỏ về quy định này giữa hai pháp lệnh này là Pháp lệnh Luật sư năm 2001 quy định về việc giữ bí mật thông tin thông qua quy định về điều cấm đối với luật sư chứ không quy định chung trong phần nghĩa vụ của luật sư như Pháp lệnh Tổ chức Luật sư năm 1987. Cụ thể, khoản 3 Điều 16 Pháp lệnh này quy định cấm luật sư: “Tiết lộ thông tin về vụ việc, về khách hàng mà mình biết được trong khi hành nghề, trừ trường hợp được khách hàng đồng ý hoặc quy tắc đạo đức nghề nghiệp luật sư, pháp luật có quy định khác”.
    Luật Luật sư 2006
    Từ năm 2001 – 2006, đội ngũ luật sư ở nước ta tăng nhanh về số lượng và chất lượng, từng bước phát triển theo hướng chuyên nghiệp, có nhiều ưu điểm và thành tựu nhưng cũng không ít hạn chế; trong khi đó đất nước đang trong quá trình hội nhập mạnh mẽ, chuẩn bị các điều kiện đầy đủ về mặt pháp lý để gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Trong bối cảnh đó, ngày 26/6/2006, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật số 65/2006/QH11 về Luật sư, có hiệu lực từ ngày 01/01/2007 (Luật Luật sư 2006).
    Trên cơ sở kế thừa và phát triển quy định về giữ bí mật thông tin khách hàng được quy định trong hai Pháp lệnh trước đó, Luật Luật sư 2006 vừa quy định “giữ bí mật thông tin khách hàng” là nghĩa vụ của luật sư trong hoạt động hành nghề luật sư, vừa quy định “giữ bí mật thông tin khách hàng” thông qua điều cấm đối với luật sư. Cụ thể, theo điểm c khoản 1 Điều 9 Luật Luật sư 2006, nghiêm cấm luật sư thực hiện hành vi: “Tiết lộ thông tin về vụ, việc, về khách hàng mà mình biết được trong khi hành nghề, trừ trường hợp được khách hàng đồng ý bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định khác”. Đây là quy định mang tính kế thừa và không khác gì về nội dung so với quy định tại khoản 3 Điều 16 Pháp lệnh Luật sư 2001.
    Đồng thời với quy định tại khoản 1 Điều 9, Điều 25 Luật Luật sư 2006 còn quy định về “Bí mật thông tin” như sau:
    “1. Luật sư không được tiết lộ thông tin về vụ, việc, về khách hàng mà mình biết được trong khi hành nghề, trừ trường hợp được khách hàng đồng ý bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định khác.
    2. Luật sư không được sử dụng thông tin về vụ, việc, về khách hàng mà mình biết được trong khi hành nghề vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
    3. Tổ chức hành nghề luật sư có trách nhiệm bảo đảm các nhân viên trong tổ chức hành nghề không tiết lộ thông tin về vụ, việc, về khách hàng của mình”.
    Như vậy, vấn đề giữ bí mật thông về khách hàng của luật sư là vấn đề mang tính pháp lý, được quy định trong các vấn bản quy phạm pháp luật. Có nghĩa là việc luật sư giữ bí mật thông tin về khách hàng là vấn đề có tính chất “bắt buộc chung” và là nghĩa vụ pháp lý của luật sư.
    1.1.2. Cở sở đạo đức và ứng xử nghề nghiệp
    Mỗi nghề nghiệp trong xã hội đều có những chuẩn mực riêng. Dù làm nghề gì thì mỗi người cũng đều cần đến cái đức, cái tâm, cần những quy tắc ứng xử nghề nghiệp. Nghề luật sư là một nghề cao quý, gắn liền với chế độ, xã hội dân chủ và Nhà nước pháp quyền. Chính vì vậy, nghề luật sư cũng cần có những quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp để làm cơ sở cho thái độ, xử sự, hành vi của luật sư trong quá trình hành nghề, trong các mối quan hệ nghề nghiệp. Một trong những quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của luật sư là việc giữ bí mật thông tin về khách hàng.
    Trong các mối quan hệ nghề nghiệp của luật sư, mối quan hệ giữa luật sư với khách hàng là mối quan hệ cơ bản, nền tảng. Khách hàng tìm đến luật sư thường là những người có các vấn đề, rắc rối về mặt pháp lý - “những con bệnh pháp lý” - cần sự giúp đỡ của luật sư hoặc những người muốn đề phòng những rủi ro pháp lý. Để giải quyết vấn đề của khách hàng, điều kiện tiên quyết là luật sư cần phải biết những thông tin về khách hàng, thông tin về vụ việc mà khách hàng đang gặp phải. Để có được thông tin từ khách hàng, luật sư phải là người đáng tin cậy để khách hàng có thể chia sẻ thành thật. Để tạo được sự tin cậy cho khách hàng, luật sư không chỉ có chuyên môn, có kỹ năng nghề nghiệp mà luật sư còn phải đảm bảo với khách hàng về việc giữ bí mật thông tin của họ. Như vậy, ứng xử nghề nghiệp đòi hỏi và đã tạo cơ sở cho việc giữ bí mật thông tin về khách hàng của luật sư. Có thể nói việc giữ bí mật thông tin về khách hàng của luật sư là quy tắc ứng xử mang tính tự nhiên (tất nhiên, tất yếu) trong mối quan hệ nghề nghiệp giữa luật sư với khách hàng.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...