Tiểu Luận Nguyên nhân khủng hoảng tài chính Mỹ 2007 và phản ứng chính sách của FED4

Thảo luận trong 'Ngân Hàng' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 4/12/13.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    A. NGUYÊN NHÂN KHỦNG HOẢNG
    · Nguyên nhân trực tiếp:
    - Tình trạng kinh doanh thua lỗ và sụp đổ hàng loạt theo dây chuyền của các tổ chức tài chính hàng đầu
    - Khủng hoảng niềm tin của người dân vào nền kinh tế
    · Nguyên nhân sâu xa:
    Sự phát triển bong bóng của thị trường tín dụng bất động sản và chứng khoán hóa thái quá các chứng khoán tín dụng bất động sản cộng với chủ nghĩa tự do trong điều hành kinh tế.
    [​IMG][​IMG]
    1. Nguyên nhân trực tiếp.
    1. Tình trạng kinh doanh thua lỗ và sụp đổ hàng loạt theo dây chuyền của các tổ chức tài chính hàng đầu
    Khi nền kinh tế bước vào thời kỳ suy thoái, kinh tế khó khăn, giá bất động sản giảm mạnh, người đi vay đã không có khả năng trả được nợ lại cũng rất khó bán bất động sản để trả nợ. Như vậy, các tổ chức tín dụng cho vay phải đối mặt với nguy cơ mất vốn. Thêm vào đó, việc các hợp đồng cho vay bất động sản dùng để bảo đảm cho các các chứng khoán MBS (chứng khoán đảm bảo bằng tài sản thế chấp) là nợ khó đòi dẫn đến các chứng khoán MBS mất giá trên thị trường, khiến cho các ngân hàng, các nhà đầu tư nắm giữ những chứng khoán này không những bị lỗ mà còn dần rơi vào tình trạng khó khăn về tính thanh khoản. Đến một mức độ nhất định, các tổ chức tài chính không còn chịu đựng được sức ép của tính thanh khoản và các khoản thua lỗ, nên đã buộc phải tìm sự cứu trợ từ tất cả các nguồn và thậm chí giải pháp cuối cùng là đệ đơn pháp sản. Do sự liên quan, đầu tư qua lại thông qua hình thức chứng khoán hoá đã dẫn đến tình trạng sụp đổ có hệ thống trên toàn cầu. Bear Stern, Indy Mac, Fannie Mae, Freddie Mac, Lehman Brothers, Meryll Lynch, Washington Mutual, Vachovia, Morgan Stanley, Goldman Sachs v.v.
    [​IMG]
    Biểu đồ trên trình bày sự biến động của 2 chỉ số chứng khoán đáng tin cậy trên 2 thị trường Mỹ và Châu Âu là Chỉ số S&P 500 và Chỉ số Europe DJ Stoxx cho thấy trong giai đoạn 2008-tháng 6/2009 hai chỉ số trên giảm mạnh. Chỉ số S&P là màu xanh ứng với cột số liệu bên trái. Chỉ số Europe DJ Stoxx màu đỏ ứng với cột số liệu bên trái.
    1. Khủng hoảng niềm tin của người dân vào nền kinh tế
    Một nguyên nhân khác dẫn đến cuộc khủng hoảng thị trường chứng khoán ngày càng sâu rộng là sự khủng hoảng về niềm tin của người dân Mỹ đối với đội ngũ lãnh đạo của đất nước này. Kế hoạch giải cứu tài chính tưởng chừng như được thông qua khi hầu hết các lãnh đạo chính trị Mỹ đều ủng hộ thì đến phút cuối lại không được Hạ viện thông qua. Ngay lập tức thị trường có những phản ứng tiêu cực với kết quả này khi các chỉ số chính trên toàn thế giới đều giảm rất sâu. Một kế hoạch giải cứu trị giá rất lớn như vậy mà khi đưa ra Hạ viện bỏ phiếu lại chưa chắc rằng liệu nó có đạt được đủ số phiếu để thông qua hay không thì trong bất cứ trường hợp nào cũng là một rủi ro đối với thị trường và đặc biệt trong tình trạng thị trường đang suy yếu. Mặc dù vài ngày sau gói giải pháp này đã được thông qua nhưng rõ ràng đã có sự không nhất quán trong nội bộ các nhà lập pháp Mỹ về cách thức điều hành và quản lý thị trường. Nhiều chính sách điều tiết thị trường đã không còn phù hợp và không theo kịp được sự phát triển của thị trường. Vấn đề là khi lòng tin vào vai trò của Chính phủ đã bị giảm sút và những dầu hiệu của một cuộc cuộc đại khủng hoảng và suy thoái trong dài hạn vẫn còn hiển hiện thì những giải pháp tài chính tức thời cũng khó làm thay đổi được thị trường.
    2. Nguyên nhân sâu xa của cuộc khủng hoảng là tình trạng phát triển bong bóng của thị trường tài chính, trong đó tập trung là thị trường tín dụng bất động sản và chứng khoán hoá các khoản tín dụng bất động sản.
    Kể từ thập niên 1980, thị trường tài chính Mỹ và thế giới đã nhanh chóng phát triển các công cụ chứng khoán phái sinh và mở rộng hoạt động chứng khoán hoá các khoản nợ và đầu tư. Mặc dù các công cụ nợ mới này giúp tăng nguồn tài chính và phân tán rủi ro nhưng đã dẫn đến việc giá cả của trái phiếu và cổ phiếu ngày càng xa rời giá trị đích thực của tài sản bảo đảm.
    Ngược lại với sự biến đổi sâu rộng của thị trường trong gần 30 năm qua, những yêu cầu của pháp luật về sự minh bạch hoá và năng lực kiểm tra, giám sát của các cơ quan nhà nước đã không bắt kịp. Không một cơ quan nhà nước, đơn vị kiểm toán hay phân tích tín dụng và tài chính có đủ thông tin và khả năng nhìn xuyên qua lớp lớp các thao tác chứng khoán để có thể đánh giá chính xác giá trị và độ rủi ro của các khoản đầu tư và tài sản nằm trên sổ sách của các tổ chức tài chính và ngân hàng.Thêm vào đó những hoạt động chứng khoán hoá lại được che đậy qua các hoạt động đầu cơ của các quỹ đầu tư nắm giữ tới gần 3.000 tỷ đô la giá trị tài sản nhưng không phải công bố tài sản với công chúng và gần như không chịu sự giám sát của bất kỳ một cơ quan nhà nước nào.
    Những nới lỏng về quản lý như việc huỷ bỏ đạo luật Glass-Steagal vốn tách biệt ngân hàng thương mại (commercial banking) chuyên thực hiện những hoạt động cho vay an toàn với ngân hàng đầu tư (investment banking) chuyên thực hiện những nghiệp vụ đầu tư rủi ro cao đã góp phần khuyến khích những hoạt động đầu cơ và tạo điều kiện cho xung đột lợi ích phát triển. Vì vậy đã thổi bùng lên bong bóng đầu cơ bất động sản
    .
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...