Tiểu Luận Nguyên nhân gây ra cuộc khủng hoảng nợ công tại một số nước trong liên minh EU và phản ứng chính sác

Thảo luận trong 'Ngân Hàng' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 3/12/13.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Phần 1: Khái quát về Nợ công
    1.1. Khái niệm
    · Theo quan điểm của Ngân hàng thế giới (WB): Nợ công là toàn bộ khoản nợ của Chính phủ và những khoản nợ được chính phủ bảo lãnh. Trong đó:
    - Nợ của Chính phủ là toàn bộ các khoản nợ trong nước và nước ngoài của Chính phủ và các đại lý của Chính phủ; các tỉnh, thành phố hoặc các tổ chức chính trị trực thuộc Chính phủ và các đại lý của các tổ chức này; các doanh nghiệp nhà nước.
    - Nợ của Chính phủ bảo lãnh là những khoản nợ trong nước và nước ngoài của khu vực tư nhân do Chính phủ bảo lãnh.
    .
    .
    .
    .
    Phần 2: Nguyên Nhân Khủng hoảng nợ công
    Khủng hoảng nợ công châu Âu với điểm bùng nổ đầu tiên là Hy Lạp vào đầu năm 2010 khi chi phí cho các khoản nợ Chính phủ liên tục tăng lên; cụ thể là lợi suất trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 2 năm của Hy Lạp liên tục tăng cao từ 3,47% vào tháng 01 năm 2010, lên 9,73% thời điểm tháng 07 năm 2010 và nhảy vọt lên 26,65%/năm vào tháng 07 năm 2011. Cuộc khủng hoảng sau đó đã lan sang Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và tiếp theo là Ý trong khu vực đồng euro. Pháp đang là quốc gia có nhiều nguy cơ tụt hạng tín dụng. Cộng hòa Sip cũng đã bị đẩy tới bờ vực để nhận gói cứu trợ.
    Nhìn rộng ra EU, nợ công của các nền kinh tế khu vực đồng euro từ năm 2007 đã vượt ngưỡng trần 60% GDP được qui định tại Hiệp ước Madrid, tăng liên tục trong 5 năm qua từ 66,3% lên 87,9% (2011).
    2.1. Khủng hoảng nợ công ở Hi Lạp: 5 nguyên nhân chính gây khủng hoảng nợ công của Hy Lạp
    2.1.1. Tiết kiệm trong nước thấp dẫn tới phải vay nợ nước ngoài cho chi tiêu công:
    Thập niên 90 tỷ lệ tiết kiệm trong nước bình quân của Hy Lạp chỉ ở mức 11%, thấp hơn nhiều so với mức 20% của các nước như Bồ Đào Nha, Ý, Tây Ban Nha và đang có xu hướng sụt giảm nhanh chóng. Do vậy, đầu tư trong nước phụ thuộc khá nhiều vào các dòng vốn đến từ bên ngoài. Lợi tức trái phiếu liên tục giảm nhờ vào việc gia nhập liên minh châu Âu EU (năm 1981) và làn sóng bán tháo trái phiếu từ dân chúng cho thấy Hy Lạp đã để vuột khỏi tay một kênh huy động vốn sẵn có buộc chính phủ Hy Lạp tăng cường vay nợ tài trợ cho chi tiêu công.
    2.1.2. Chi tiêu công tăng cao dẫn đến thâm hụt ngân sách.
    Tăng trưởng GDP của Hy Lạp vẫn được ca ngợi với tốc độ tăng trung bình hàng năm là 4,3% (2001 – 2007) so với mức trung bình của khu vực Eurozone là 3,1%. Tuy nhiên, trong giai đoạn này, mức chi tiêu chính phủ tăng 87% trong khi mức thu của chính phủ chỉ tăng 31%, khiến cho ngân sách thâm hụt vượt quá mức cho phép 3% GDP của EU.
    Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD), chi tiêu cho quản lý công trong tổng số chi tiêu công của Hy Lạp năm 2004 đã cao hơn nhiều so với các nước thành viên OECD khác trong khi chất lượng và số lượng dịch vụ không được cải thiện nhiều. Năm 2008, khủng hoảng tài chính toàn nổ ra đã ảnh hưởng khá mạnh đến các ngành công nghiệp chủ chốt của Hy Lạp. Ngành du lịch và vận tải biển, doanh thu đều sụt giảm trên 15% trong năm 2009. Kinh tế Hy Lạp cũng lâm vào tình trạng khó khăn, nguồn thu để tài trợ cho ngân sách nhà nước bị co hẹp mạnh. Trong khi đó Hy Lạp lại phải tăng cường chi tiêu công để kích thích kinh tế. Tính đến tháng 01/2010, nợ công của Hy Lạp ước tính lên tới 216 tỷ Euro và mức nợ lũy kế đạt mức 130% GDP.
    Sự già hóa dân số và hệ thống lương hưu vào loại hào phóng bậc nhất khu vực châu Âu của Hy Lạp cũng được coi là một trong những gánh nặng cho chi tiêu công. Ước tính tổng số tiền chi trả cho lương hưu khu vực công của Hy Lạp sẽ tăng từ 11,5% GDP (2005) lên 24% (2050).
    2.1.3. Nguồn thu giảm sút cũng là một nhân tố dẫn tới tình trạng thâm hụt ngân sách và gia tăng nợ công. Trốn thuế và hoạt động kinh tế ngầm ở Hy Lạp là nhân tố làm giảm nguồn thu ngân sách.
    Theo đánh giá của WB, kinh tế không chính thức ở Hy Lạp chiếm tới 25 - 30% GDP(so với mức 15,6% GDP của Việt Nam; 13,1% GDP của Trung Quốc và Singapore; 11,3% GDP của Nhật Bản). Hệ thống thuế với nhiều mức thuế cao và bộ luật phức tạp cùng với sự điều tiết dư thừa và thiếu hiệu quả của cơ quan quản lý là nguyên nhân dẫn đến tình trạng trốn thuế và kinh tế ngầm phát triển ở Hy Lạp.
    Theo Tổ chức Minh bạch quốc tế, Hy Lạp là một trong những nước có tỷ lệ tham nhũng cao nhất trong EU. Năm 2008, hơn 13% người Hy Lạp đã chi tới 750 triệu EUR tiền phong bì cho các lãnh đạo khu vực công và khu vực tư, trong đó có bác sĩ là những người đòi nhiều tiền hơn cho các cuộc phẫu thuật; các nhà quy hoạch thành phố và các quan chức ở địa phương cũng liên quan đến những vụ việc nhận hối lộ . Thủ tướng Hy Lạp George Papandreou thừa nhận “tham nhũng mang tính hệ thống” là vấn đề cơ bản nhất dẫn đến tình trạng nợ công Hy Lạp. Thiệt hại mà tham nhũng gây ra cho Hy Lạp ước tính vào khoảng 8% GDP. Tham nhũng không chỉ gây ra trốn thuế, nó còn làm tăng chi tiêu chính phủ, nhắm tới duy trì mức lương cao cho công chức và thực hiện các dự án có vốn đầu tư lớn thay vì nhắm vào các dự án tạo ra nhiều việc làm và nâng cao năng suất lao động. Mức lương cao không chỉ tạo ra gánh nặng ngân sách mà còn làm cho tính cạnh tranh của nền kinh tế Hy Lạp yếu đi. Lương cao, đồng euro tăng giá từ mức 1 euro đổi hơn 0,8 USD lên đến 1 euro đổi 1,6 USD trong suốt giai đoạn từ 2000-2008 khiến sức cạnh tranh của hàng hóa Hy Lạp yếu và hệ quả tất yếu là một cán cân thương mại thâm hụt triền miên.
    2.1.4. Sự tiếp cận dễ dãi với nguồn vốn đầu tư nước ngoài và việc sử dụng nguồn vốn không hiệu quả.
    Bên cạnh đó, việc gia nhập Eurozone năm 2001 là cơ hội lớn để Hy Lạp có thể tiếp cận với thị trường vốn quốc tế với việc sử dụng một đồng tiền được những nền kinh tế lớn như Đức và Pháp bảo đảm cùng với sự quản lý chính sách tiền tệ của Ngân hàng TƯ châu Âu (ECB). Nhờ việc gia nhập Eurozone Hy Lạp nghiễm nhiên có được hình ảnh ổn định cao và chắc chắn trong mắt các nhà đầu tư, dễ dàng thu hút vốn đầu tư nước ngoài với mức lãi suất thấp. Gần một thập kỷ qua, Chính phủ Hy Lạp liên tục bán trái phiếu để thu về hàng trăm tỷ USD. Số tiền này lẽ ra có thể giúp kinh tế Hy Lạp tiến rất xa nếu chính phủ có kế hoạch chi tiêu hợp lý. Tuy nhiên, chính phủ Hy Lạp đã chi tiêu quá tay (phần lớn cho cơ sở hạ tầng) mà hầu như không quan tâm đến các kế hoạch trả nợ.
    2.1.5. thiếu tính minh bạch và niềm tin của các nhà đầu tư.
    Sự thiếu minh bạch trong số liệu thống kê của Hy Lạp đã làm mất niềm tin của các nhà đầu tư mà quốc gia này đã tạo dựng được với tư cách là một thành viên của Eurozone và nhanh chóng xuất hiện các làn sóng rút vốn ồ ạt khỏi các ngân hàng của Hy Lạp, đẩy quốc gia này vào tình trạng khó khăn trong việc huy động vốn trên thị trường vốn quốc tế. Sự phụ thuộc vào nguồn tài chính nước ngoài đã khiến cho Hy Lạp trở nên rất dễ bị tổn thương trước những thay đổi trong niềm tin của giới đầu tư. Trong thời đại hội nhập, thì minh bạch luôn là một đòi hỏi lớn của các nhà đầu tư. Khủng hoảng nợ công của Hy Lạp do chính phủ không minh bạch các số liệu, cố gắng vẽ nên bức tranh sáng, màu hồng về tình trạng ngân sách về những chính sách sắp ban hành để khắc phục những khó khăn về ngân sách hay vấn đề kinh tế vĩ mô do vậy, hiệu lực của những chính sách đó sẽ bị hạn chế nhiều.
    ,
    ,
    .
    .
    .
    .
    3.2. Phản ứng, chính sách:
    3.2.1 Phản ứng chính sách chung:
    - Ngày 2/5/2010, các nước thành viên khu vực đồng euro và Quỹ Tiền tệ Quốc tế đã thông qua khoản vay 110 tỷ euro cho Hy Lạp, với điều kiện nước này phải thực thi các biện pháp thắt lưng buộc bụng khắc nghiệt.
    - Ngày 09/05/2010, Bộ trưởng Bộ Tài chính châu Âu đã thông qua gói giải cứu trị giá 750 tỷ euro nhằm đảm bảo sự ổn định tài chính ở khu vực châu Âu, và lập ra Ủy ban Ổn định Tài chính châu Âu.
    - Tiếp theo đó là gói cứu trợ trị giá 85 tỷ euro cho Ireland vào tháng 11 năm 2010 và 78 tỷ euro cho Bồ Đào Nha vào tháng 5 năm 2011.
    - Tây Ban Nha cũng thực hiện các biện pháp cắt giản 6 tỷ $ đầu tư công, cắt giảm 5% lương nhân viên nhà nước cũng như giảm lương hưu.
    - Mới đây, để củng cố hơn nữa hệ thống ngân hàng tài chính và củng cố niềm tin của các nhà đầu tư toàn cầu, EU đã tiến hành kiểm tra sức khỏe của 91 ngân hàng trong 20 nước thành viên, kết quả có 7 ngân hàng không đủ tiêu chuẩn là: Hypo Real Estate của Đức, Agricultural Bank of greece SA của Hy Lạp và 5 ngân hàng khác của Tây ban Nha. Các ngân hàng này cần tăng vốn thêm 3,5 tỷ EUR để duy trì tỷ lệ vốn ở mức 6%.
    - Châu Âu sẽ tiến tới lập một liên minh ngân hàng và một ngân sách chung, cho phép can thiệp vào ngân sách của quốc gia thành viên.
    3.2.2 Các giải pháp cho khủng hoảng nợ Hy Lạp
    Để tài trợ cho các khoản thâm hụt ngân sách khổng lồ nêu trên, Hy Lạp vay chính trên các thị trường tài chính quốc tế. Dự kiến nợ còn hạn của Hy Lạp đã lên tới gần 400 tỷ đô la Mỹ (chiếm tới gần 120% GDP của nước này), trong đó riêng nợ đáo hạn vào năm 2010 đã lên tới 73 tỷ đô la Mỹ (khoảng 27 tỷ đô la Mỹ đáo hạn ngay trong tháng 4 và 5/2010).
    Bức tranh khủng hoảng nợ của Hy Lạp trở nên trầm trọng hơn khi mà những nỗ lực của Chính phủ Hy Lạp để vay nợ từ các thị trường tài chính vào cuối tháng 3 vừa qua đã không đem lại kết quả như mong đợi. Hy Lạp thực hiện phát hành trái phiếu chính phủ mới và mở lại đợt phát hành trái phiếu chính phủ cũ trong hai ngày liên tiếp, làm cạn kiệt cầu về chứng khoán nợ của nước này và do đó vay được rất ít, tổng cộng chỉ được gần 5,4 tỷ euro. Đồng thời những bất ổn về chính trị - xã hội khiến giới đầu tư quan ngại về khả năng của Chính phủ Hy Lạp trong việc thực hiện chính sách cứu vãn tình hình cũng như đàm phán gói vay cứu trợ với EU và IMF, hậu quả là tình hình đã xấu lại càng trở nên xấu hơn.
    Trước mắt, để giải quyết vấn đề thanh khoản và nguy cơ vỡ nợ trên, bên cạnh việc chấp thuận gói vay cứu trợ của EU/IMF, Hy Lạp có thể xem xét một số lựa chọn khác như: tiếp tục vay nợ trên thị trường tài chính, bảo lãnh nợ EU, phát hành trái phiếu EU, ký kết các thoả thuận song phương, và tăng cường phát triển cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên khả năng Hy Lạp sử dụng được các biện pháp thay thế nêu trên là hạn chế. Về mặt dài hạn, Hy Lạp cần phải thực hiện cắt giảm chi tiêu ngân sách và tăng các khoản thu, đồng thời thực hiện tái cấu trúc nợ. Cuối cùng, Hy Lạp cần phải đạt được các mục tiêu ngân sách và tăng trưởng 3 năm (2010-2012) đặt ra trong “Chương trình Tăng trưởng và Ổn định” của nước này.
    Ngày 21/10, Hy Lạp thông qua chính sách tiết kiệm ngân sách mới bao gồm tăng thuế, cắt giảm trợ cấp, sa thải 30.000 công chức trước áp lực nợ công lên tới 162% GDP. Sau nhiều lần trì hoãn, gói cứu trợ thứ 2 trị giá 130 tỷ euro đã được thành viên cuối cùng của châu Âu là Đức thông qua nhằm giúp đưa nợ công quốc gia này giảm về gần 121% GDP vào năm 2020.Tháng 3/2012, các chủ nợ tư nhân đồng ý hoán đổi 85% nợ cho Hy Lạp, giúp cắt giảm khoảng 100 tỷ EUR nợ khỏi nghĩ vụ nợ của quốc gia này. Ngay lập tức, ngày 9/3, Fitch và Moody’s đồng loạt tuyên bố Hy Lạp đã vỡ nợ. Trước đó, vào ngày 28/2, Athens cũng bị một hãng định mức tín nhiệm hàng đầu khác là S& P xem là đã vỡ nợ một phần
    v Khắc phục tình trạng tham nhũng và trốn thuế
    - Nạn tham nhũng và trốn thuế ở Hy Lạp đã quá mức nghiêm trọng. Để khắc phục tình trạng này, chính phủ Hy Lạp buộc phải đưa ra những biện pháp mạnh tay, cải tổ hoàn toàn bộ máy. Chính phủ phải có chương trình hành động lâu dài. Phải tẩy sạch quốc nạn tham nhũng với tinh thần, tư cách một cuộc cách mạng thật sự. Một số biện pháp cơ bản có thể đưa ra là:
    - Phải thiết lập một hệ thống tổ chức chuyên sâu ở các cấp, các ngành với mạng lưới hoạt động công khai và bí mật, theo dõi thường xuyên những người và vụ việc có dấu hiệu tham nhũng để kịp thời ngăn chặn và xử lý.
    - Kê khai tài sản riêng của các viên chức trong tất cả các tổ chức của bộ máy công quyền, kể cả những người giữ cương vị lãnh đạo cao, những cán bộ chủ chốt, chuyên viên cao cấp, đầu ngành . khi được bổ nhiệm công việc cũng như khi thôi việc, nghỉ hưu.
    - Có những chế tài xử lý mạnh mẽ hơn nữa với các hành vi tham nhũng
    - Nâng cao tính minh bạch của hệ thống thuế, như thay thế một loạt quan chức ngành này, tiến hành điều tra nội bộ nhằm vào những hành vi hối lộ, khai man trốn thuế .
    v Nâng cao hiệu của quản lý chi tiêu công
    - Đảm bảo quy mô chi ngân sách nhà nước. Theo đó, giảm tỉ lệ chi thường xuyên, hạn chế lương thưởng cho cán bộ công chức, tinh giảm bộ máy hành chính.
    - Nâng cao tính trách nhiệm, minh bạch, dân chủ trong chi tiêu công; đảm bảo tính hiệu quả và hiệu lực của những chương trình và cung cấp hàng hóa, dịch vụ công cho xã hội
    v Cơ cấu vay vốn hợp lý
    - Lập các kế hoạch vay nợ, sử dụng nợ cũng như trả nợ chi tiết, hiệu quả. Hiện tại, hầu hết các khoản nợ của Hy Lạp đều là các khoản nợ ngắn hạn. Do đó chính phủ Hy Lạp cần xây dựng tỷ lệ nợ ngắn hạn và dài hạn phù hợp đồng thời có kế hoạch lập ngân sách dài hạn.
    - Đánh giá chính xác hiệu quả của các dự án sử dụng vốn vay nước ngoài khi đi vào hoạt động. Từ đó có kế hoạch trả nợ hợp lý.
    3.2.3 Các giải pháp của khủng hoảng nợ công Tây Ban Nha:
    Áp lực ngày càng gia tăng khi 9 trong tổng số 17 bang của Tây Ban Nha yêu cầu được chính quyền trung ương viện trợ gần 17 tỷ euro (23 tỷ USD) để duy trì hoạt động. Số tiền này chiếm tới 93% tổng số tiền trong quỹ cứu trợ địa phương mà Thủ tướng Mariano Rajoy, người luôn phản đối việc nhận cứu trợ của châu Âu, lập ra hồi tháng 7 để bảo vệ các chính quyền tự trị khỏi bị vỡ nợ. Vì hiện nay các địa phương này đều không thể thu hút nguồn vốn từ việc phát hành trái phiếu nên Chính phủ sẽ buộc phải giải quyết vấn đề ngân sách này. Điều đó càng gia tăng áp lực lên Bộ Tài chính Tây Ban Nha.
    Những khó khăn chồng chất, đặc biệt là trong lĩnh vực ngân hàng đã buộc Tây Ban Nha phải chính thức xin giải ngân khoản tiền gần 40 tỷ euro từ gói cứu trợ của châu Âu để tái cấp vốn cho hệ thống ngân hàng đang gặp khó khăn. Hệ thống ngân hàng vốn được xem là điểm yếu nhất trong hệ thống kinh tế Tây Ban Nha do đang chịu thua lỗ nặng từ các khoản cho vay mua nhà đất khi bong bóng bất động sản bùng nổ. Hiện nợ xấu trong hệ thống ngân hàng của nước này chiếm hơn 10% và hầu hết đều nằm trong lĩnh vực bất động sản.
    Tin xấu về các khoản nợ của Tây Ban Nha đã gây nên tâm lý lo ngại cho các nhà đầu tư, khiến cho chi phí vay mượn của nước này tăng vọt. Lãi suất trái phiếu của Chính phủ Tây Ban Nha đã có lúc tăng vọt lên 7,5%, vượt qua cả lãi suất vốn được xem là “khủng” của các nước khác trong khối như Italia (gần 6,4%) hay Ai-len (hơn 6,2%). Nếu chi phí vay mượn tiếp tục gia tăng, Tây Ban Nha sẽ không trả được nợ và tình hình này giống hệt hoàn cảnh của Hy Lạp, Ai-len khi xin viện trợ khẩn cấp từ EU và IMF. Tuy nhiên, do quy mô kinh tế của Tây Ban Nha lớn gấp đôi so với quy mô của cả ba nền kinh tế Hy Lạp, Ai-len, Bồ Đào Nha cộng lại. Nếu Tây Ban Nha vỡ nợ, hậu quả sẽ nghiêm trọng hơn rất nhiều và thậm chí có thể khiến Eurozone tan rã.
    Mặt khác, vấn đề nợ công của Tây Ban Nha không phải đến từ việc chi tiêu quá mức mà chủ yếu do khoản nợ của các hộ gia đình và công ty đối với hệ thống ngân hàng. Không những thế, nước này còn phải thắt chặt chi tiêu để nhận được sự giúp đỡ từ EU cho hệ thống ngân hàng. Trong bối cảnh kinh tế sụt giảm nghiêm trọng, việc phải thực hiện các biện pháp khắt khe đã khiến các ngân hàng Tây Ban Nha càng thêm cùng quẫn. Được biết, khoản giải ngân gần 40 tỷ euro mà Chính phủ Tây Ban Nha chính thức đề nghị được dùng để tái cấp vốn cho các ngân hàng quốc doanh là Bankia, Catalunya Banc, NCG Banco và 2,5 tỷ euro trong số này sẽ được cấp cho ngân hàng mua bán nợ xấu mới được thành lập.
    Cho dù đã áp dụng mọi biện pháp kinh tế được cho là khắc nghiệt đến cùng cực, tình hình khó khăn về kinh tế của 5 nước phải xin cứu trợ vẫn không được cải thiện. Kinh tế liên tiếp tăng trưởng âm, thất nghiệp không ngừng gia tăng buộc cả người dân và Chính phủ phải thắt chặt hầu bao đồng thời châm ngòi cho những bất ổn xã hội nghiêm trọng. Tình thế đó đã khiến các chuyên gia kinh tế không dám đưa ra những nhận định chắc chắn về 12 nước còn lại trong khối. Liệu quốc gia nào sẽ trở thành nạn nhân tiếp theo của cuộc khủng hoảng nợ công và tương lai Eurozone sẽ đi về đâu vẫn còn là một dấu hỏi lớn.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...