Luận Văn Nguồn vốn đầu tư nước ngoài trong việc thực hiện đường lối CNH, HĐH của nước ta trong giai đoạn hiện

Thảo luận trong 'Hành Chính' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Người ta thường nói đến Công nghiệp hóa (CNH), Hiện đại hóa (HĐH) đất nước như một giải pháp đảm bảo cho nền kinh tế phát triển ổn định, lâu dài, từng bước nâng cao mức sống cho nhân dân về tinh thần và vật chất, nền kinh tế ngày càng tự chủ, ít bị phụ thuộc vào bên ngoài.v.v .Tổ chức Liên hợp quốc về phát triển công nghiệp UNIDO cũng đã đưa ra một khái niệm tương đối tổng quát về CNH: CNH là quá trình phát triển kinh tế sử dụng các nguồn lực quốc gia để phát triển cơ cấu kinh tế nhiều ngành với kỹ thuật hiện đại. Đặc trưng của cơ cấu kinh tế này là tỷ trọng ngành công nghiệp chế tạo ngày càng tăng lên đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế cả về những tư liệu sản xuất cũng như tư liệu tiêu dùng và có khả năng đảm bảo nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao, đảm bảo sự tiến bộ về kinh tế - xã hội.
    Trong nhiều tài liệu nghiên cứu người ta liệt kê những mô hình CNH khác nhau, ứng vào những giai đoạn phát triển khác nhau của nền kinh tế thế giới và với những trình độ và điều kiện phát triển khác nhau ở mỗi nước. Mô hình CNH kiểu cổ điển đã diễn ra ở các nước châu Âu từ những thế kỷ 17, 18.Về cơ bản, quá trình CNH kiểu “cổ điển” diễn ra như “một quá trình tự nhiên”, từ thấp đến cao, từ các ngành công nghiệp trực tiếp phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng dân cư (công nghiệp nhẹ (dệt may, giày dép .); công nghiệp thực phẩm, đến phát triển các ngành công nghiệp sản xuất máy công tác, động lực (công nghiệp cơ khí ) và các ngành dịch vụ. Mô hình Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng ở Liên Xô và các nước XHCN trước đây trên cơ sở chế độ kế hoạch hóa tập trung, mô hình CNH dựa vào tài nguyên ( như các nước Bắc Âu đi từ lâm nghiệp, các nước sản xuất dầu lửa, ), mô hình CNH thay thế nhập khẩu, CNH hướng về xuất khẩu.v.v
    Nhận xét chung, tùy theo điều kiện lịch sử và trình độ phát triển của kinh tế thế giới mỗi mô hình trên đều mang lại những thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế xã hội cho các nước áp dụng. Các mô hình trên được đánh giá thành công ít hoặc nhiều, cho một số hay cho nhiều nước, nhưng cùng với thời gian sự thành công của các mô hình không lặp lại, chúng được hoàn thiện theo mức độ phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trên quy mô toàn cầu.
    Ngày nay, khi mà tiến bộ khoa học và công nghệ đã trở thành bộ phận cấu thành của lực lượng sản xuất thì ở nhiều nước thuật ngữ CNH đều đi liền với thuật ngữ HĐH. Điều này có nghĩa rằng nếu CNH chỉ quá trình hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đặc biệt là cơ cấu các ngành công nghiệp theo trình tự từ thấp đến cao, từ các ngành công nghiệp chế biến lương thực thực phẩm, đến các ngành công nghiệp chế tạo cơ khí, các ngành công nặng nói chung thì HĐH hàm ý cơ cấu các ngành công nghiệp được xây dựng trên cơ sở những thành tựu về khoa học và công nghệ mới nhất của thế giới hoặc phù hợp với khả năng tích luỹ của đất nước, khai thác những cơ hội do trình độ phát triển kinh tế chung của thế giới mang lại.
    Sự nghiệp CNH,HĐH nước ta được tiến hành trong điều kiện đặc biệt. Thứ nhất, từ một nền kinh tế chủ yếu là sản xuất nông nghiêp, sau gần 20 năm đổi mới kinh tế chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn về kinh tế và xã hội, nhưng nhìn chung trình độ phát triển kinh tế còn thấp, GDP bình quân đầu người trên 500 USD/năm thấp hơn mức để vượt ra khỏi giới hạn nước kém phát triển, khả năng công nghệ, tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế còn nhỏ, nhu cầu vốn cho quá trình CNH, HĐH đất nước lớn. Tuy nhiên, nếu xét về xu thế và yêu cầu phát triển kinh tế và xã hội trong 15-20 năm tới Việt Nam cần có tốc độ tăng trưởng vượt bậc, một cơ cấu kinh tế tương đối hoàn chỉnh để "cơ bản trở thành nước công nghiệp vào năm 2020". Thứ hai, trên thế giới Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ, tạo ra những cơ hội phát triển, nhưng cũng không ít thách thức cho các nước đi sau. Nhiều nước đã có thể rút ngăn thời gian CNH, HĐH đất nước xuống 30-40 năm so với hàng trăm năm trước đây của các nước phát triển. Nhưng cũng có nhiều nước rơi vào cảnh cùng cực, đói nghèo triền miên, chiến tranh, xung đột sắc tộc; kinh tế, chính trị ngày càng bị phụ thuộc vào các thế lực bên ngoài; văn hóa dân tộc bị băng hoại, lai căng.v.v .Rõ ràng, để có thể thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH đất nước trong một thời gian ngắn chỉ có thể là kết hợp các quá trình CNH, HĐH trong nước với các xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, các qúa trình toàn cầu hóa và khu vực hóa hiện nay. Thứ ba, quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế trong nước, chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường theo định hướng XHCN đang diễn ra đồng thời với quá trình toàn cầu hoá và khu vực hoá mạnh mẽ hiện nay. Để có thể kết hợp cùng một lúc các quá trình này và có những đối sách ứng xử với những diễn biến từ bên ngoài đòi hỏi phải có những nhận thức nhất định về từng quá trình, về cơ chế vận động của chúng.
    Nói cách khác, trong những điều kiện trên để có thể chủ động thực hiện các quá trình CNH, HĐH đất nước, chủ động hội nhập vào kinh tế quốc tế cần phải nhận thức được quy luật phát triển của các quá trình đó, từ đó đưa ra những cơ chế chính sách thích hợp, thậm chí đường lối, chiến lược phát triển lâu dài cho đất nước.
    Từ những nhận định như trên, em thấy rằng để có thể rút ngắn quá trình CNH, HĐH đất nước trong điều kiện hiện nay qúa trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nước, đặc biệt cơ cấu các ngành công nghiệp phải gắn liền với xu thế và thực tế chuyển dịch cơ cấu các ngành công nghiệp trong khu vực và trên thế giới, khai thác những cơ hội phát triển, các nguồn lực từ bên ngoài, từng bước củng cố nội lực, hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH.
    Những nguồn lực bên ngoài có vai trò quan trọng đối với một nước đang phát triển, đang chuẩn bị bước vào giai đoạn “cất cánh” như Việt Nam hiện nay là Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA). Là một sinh viên chuyên ngành đầu tư, em quan tâm tìm hiểu làm thế nào để sử dụng các nguồn vốn nước ngoài để phát triển nền kinh tế theo hướng CNH, HĐH . Vì vậy, em đã chọn đề tài cho luận văn của mình là "Nguồn vốn đầu tư nước ngoài trong việc thực hiện đường lối CNH, HĐH của nước ta trong giai đoạn hiện nay"
    Trong đề tài em tập trung giải quyết các vấn đề:
    *Đưa ra mô hình CNH, HĐH phù hợp với Việt Nam hiện nay
    *Vai trò của nguồn vốn nước ngoài đối với CNH, HĐH của Việt Nam
    *Những thành tựu CNH, HĐH của Việt Nam trong giai đoạn 2001-2005
    *Dóng góp của nguồn vốn nước ngoài đối với các kết quả đạt được đó.
    *Đưa ra nội dung CNH, HĐH của Việt Nam trong kế hoạch 5 năm tới 2006-2010
    *Kiến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thu hút và hiệu quả sử dụng các nguồn vốn nước ngoài.
    Đề tài của em chia làm 3 phần:
    Phần I: Đầu tư với vấn đề công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
    Phần II Vai trò của nguồn vốn nước ngoài đối với quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam trong giai đoạn 2001-2005
    Phần III Một số giải pháp nhằm tiếp tục thu hút vốn nước ngoài và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn đó trong sự nghiệp CNH- HĐH đất nước trong thời gian tới
     
Đang tải...