Thạc Sĩ NGUỒN NHÂN LỰC HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG [Tham khảo làm luận văn Thạc sỹ]

Thảo luận trong 'Hành Chính' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    PHẦN 1: HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG - BỘ PHẬN CỦA NGUỒN NHÂN LỰC VÀ VAI TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ NHÀ GIÁO TRONG QUÁ TRÌNH ĐÀO TẠO BỘ PHẬN NHÂN LỰC NÀY

    1.1. HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG - BỘ PHẬN QUAN TRỌNG CỦA NGUỒN NHÂN LỰC
    1.1.1. Nguồn nhân lực
    1.1.1.1. Quan niệm về nguồn nhân lực
    Trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế thế giới hiện nay, quốc gia nào cũng nhận thức rõ nguồn nhân lực là nhân tố quyết định đến sự phát triển KT-XH của đất nước. Nhiều quốc gia đã xây dựng cho mình chiến lược phát triển nguồn nhân lực và coi đó là vấn đề cốt lõi cho sự phát triển.
    Khi nói đến “nguồn nhân lực” tức là muốn nói đến một tài sản quý, vốn quý có khả năng sinh sôi nảy nở và có thể đem ra sử dụng. Tài sản quý, vốn quý đó gắn liền với con người - một đơn vị tế bào tạo nên nguồn nhân lực, là đối tượng cần được đầu tư, được giáo dục và được đào tạo. Có thể hiểu nguồn nhân lực ở một số nội dung sau:

    Thứ nhất
    , nói tới nguồn nhân lực là nói tới con người hiện thực và chất lượng phát triển của con người gắn liền với bản chất xã hội.
    Các nhà triết học mácxít đã khẳng định: con người hiện thực là một chỉnh thể sinh học - xã hội, nhưng yếu tố xã hội mới là bản chất đích thực của con người. Kết hợp hai mặt sinh học và xã hội, con người có một năng lực tiềm ẩn (tiềm năng), khi được sử dụng và gặp môi trường thuận lợi thì tiềm năng ấy được phát huy, lúc đó con người trở thành động lực cho sự phát triển KT-XH. Môi trường đó chính là hoạt động lao động - hoạt động bản chất nhất của con người nhằm tạo ra các sản phẩm phục vụ cho cuộc sống: “Lao động là điều kiện cơ bản, đầu tiên của toàn bộ đời sống loài người và như thế đến một mức mà trên một nghĩa nào đó chúng ta phải nói: lao động đã sáng tạo ra bản thân con người”[26, tr.641]. Và, mặc dù: “Bản thân chúng ta, với cả xương thịt, máu mủ và đầu óc, chúng ta là thuộc về tự nhiên, chúng ta nằm trong lòng giới tự nhiên”[26, tr.665] nhưng nhờ có lao động mà: “Người là giống vật duy nhất có thể bằng lao động mà thoát khỏi trạng thái thuần túy là loài vật” [26, tr.673]. Lao động mang ý nghĩa nhân bản sâu xa bởi trong lao động con người đã làm biến đổi tự nhiên, biến đổi cả bản thân mình và đã làm nên lịch sử của cả xã hội loài người. Điều đó cho thấy, nếu con người là sản phẩm của hoàn cảnh lịch sử - xã hội thì đặc trưng bản chất nhất của nguồn nhân lực là sự phản ánh trình độ phát triển, mức độ hoàn thiện con người trong từng thời kỳ lịch sử nhất định. Chính các hoạt động nhận thức thực tiễn của con người đã làm hoàn thiện nhân cách, trình độ, trí tuệ và thể lực của con người, giúp con người thực hiện các chức năng xã hội của mình. Vì vậy, khi đào tạo nguồn nhân lực cần phải phát triển cả mặt sinh học (sức khỏe, nuôi dưỡng, vệ sinh, môi trường .) và mặt xã hội (kiến thức, kỹ năng, đạo đức, lối sống .) cho con người. Đây là điều kiện để tạo ra những khả năng, tiềm năng của nguồn nhân lực đồng thời cũng là cơ sở để có giải pháp phát huy vai trò của nguồn nhân lực.

    Thứ hai
    , nói tới nguồn nhân lực là nói tới con người trong tư cách cá nhân và cá thể tồn tại, hoạt động, sống và tự biểu hiện đời sống của mình trong mối liên hệ với những người khác, với cả cộng đồng, chịu ảnh hưởng cũng như sự tác động của các quan hệ xã hội và điều kiện lịch sử - xã hội mà cá nhân đó đang sinh sống.
    Khi xem xét mối quan hệ giữa con người với thế giới xung quanh, các nhà triết học mácxít đã chứng minh được: con người là sản phẩm của hoàn cảnh, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra hoàn cảnh. Nhưng hoạt động sáng tạo ra hoàn cảnh của con người lại chỉ được thực hiện trong mối quan hệ với cộng đồng. Xã hội và quan hệ xã hội là điều kiện để con người thể hiện bản tính phong phú và tư duy sáng tạo của mình. Do đó, khả năng của con người hay của nguồn nhân lực được huy động vào quá trình phát triển xã hội sẽ trở thành những thông số quan trọng để nghiên cứu và điều chỉnh một cách có ý thức nguồn nhân lực của từng quốc gia hoặc từng địa phương.

    Thứ ba
    , nói đến nguồn nhân lực cần nhấn mạnh đến vai trò tích cực, sáng tạo của con người trong hoạt động thực tiễn, nó thể hiện ở vai trò chủ thể sáng tạo trong quá trình phát triển đồng thời cũng là khách thể của quá trình phát triển, thể hiện trong việc con người cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội và cải tạo bản thân.
    Các nhà mácxít khẳng định: sự thay thế của các hình thái KT-XH trong lịch sử là do sự phát triển của LLSX. Mà trong LLSX, con người là yếu tố cách mạng và năng động nhất. Chính con người đã làm nên những biến đổi về tính chất và trình độ của LLSX để rồi đưa xã hội tiến lên. Với luận điểm, xã hội tạo ra con người ở mức độ nào thì con người cũng tạo ra xã hội ở mức độ đó đã cho thấy: trong tiến trình các cuộc cải biến xã hội, con người luôn là mục tiêu đồng thời là động lực của tiến trình đó. Thực tế đã chứng minh, ở đâu các lực lượng cách mạng có ý thức đầy đủ về vai trò của con người, có giải pháp hiện thực hóa vai trò của con người thì sự nghiệp cách mạng ở đó sẽ giành thắng lợi. Với ý nghĩa đó, xét trong quá trình phát triển thì con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực.

    Kế thừa và phát triển những luận điểm trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp tục nghiên cứu và khẳng định, con người là những cá nhân cụ thể, vừa tồn tại với tư cách cá nhân với những nhu cầu, khát vọng và năng lực tiềm tàng lại vừa tồn tại với tư cách là những thành viên của gia đình, của cộng đồng dân tộc. Bằng năng lực và trách nhiệm đối với xã hội, con người có vai trò to lớn, quyết định tới thành công của cách mạng, tiến bộ của xã hội, tiền đồ của dân tộc và hạnh phúc của nhân dân. Người viết: “Vô luận việc gì đều do con người làm ra”[32, tr.113]. Rằng “Phải bồi dưỡng, đào tạo và phát huy năng lực của con người, của từng cá nhân và của cả cộng đồng dân tộc [34, tr.56].
    Từ cơ sở đó có thể quan niệm rằng: Nguồn nhân lực là tổng thể các tiềm năng của con người trong một quốc gia, một vùng lãnh thổ, một địa phương đã được chuẩn bị ở mức độ nào đó, có khả năng huy động vào quá trình phát triển KT-XH của đất nước hoặc một vùng, một địa phương cụ thể. Nguồn nhân lực là nơi cung cấp sức lao động cho xã hội, là bộ phận quan trọng nhất của dân số, của các nguồn lực, có khả năng tạo ra các giá trị vật chất và tinh thần cho xã hội. Cấu trúc nguồn nhân lực của một quốc gia gồm những người nằm trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động, không kể đến trạng thái có hay không làm việc. Ở Việt Nam, theo Luật lao động, nam tuổi từ 15-60; nữ tuổi từ 15-55, có khả năng lao động đều thuộc nguồn nhân lực.

    1.1.1.2. Phát triển nguồn nhân lực và vai trò của nó đối với sự phát triển xã hội

    Để phát triển KT-XH cần có nhiều nguồn lực, trong đó nguồn nhân lực có ý nghĩa quyết định sự phát triển, vì con người vừa là một nguồn lực, vừa là chủ thể của các nguồn lực khác. Con người bằng lao động sáng tạo đã phát hiện ra ngày càng nhiều nguồn lực trong tự nhiên và từ nguồn lực tự nhiên tạo thành những nguồn lực mới, làm tăng lên những khả năng có thể có của đất nước, của dân tộc cho sự phát triển. Mặt khác do đặc tính lao động sáng tạo của con người mà nguồn nhân lực trở nên sinh động và không cạn kiệt, hơn nữa nguồn nhân lực có khả năng phát triển, tái sinh và tự nhân mình lên gấp bội. Vì vậy, để đảm bảo cho sự phát triển bền vững thì cần phải quan tâm bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực cả về trí tuệ, năng lực, thể lực và đạo đức.
    Cách đây hơn 150 năm, Mác đã đề cập tới phát triển con người toàn diện, lấy đó làm cơ sở cho sự phát triển xã hội CSCN. Ông cho rằng sự phát triển LLSX xã hội trước hết là: “Phát triển sự phong phú của bản chất con người, như là một mục tiêu tự thân”[28, tr.168]. Theo Mác-Ăngghen, cuộc đấu tranh của những người cộng sản chống lại trật tự tư sản chính là nhằm mục đích “tạo ra hoàn cảnh có tính người” để “phát triển những năng lực phẩm chất người”. Kết quả của cuộc đấu tranh đó là sự xuất hiện một liên hợp, trong đó “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của mọi người”. Nguồn nhân lực vừa là một yếu tố của sản xuất, của tăng trưởng kinh tế, vừa là mục tiêu của sự phát triển, “phát triển nguồn nhân lực chính là hoạt động đầu tư, là quá trình bồi dưỡng, đào tạo, sử dụng về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực nhằm tạo ra cho lực lượng này những năng lực, phẩm chất cần thiết, đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp phát triển KT-XH”. Việc phát hiện và làm bộc lộ tiềm năng của nguồn nhân lực nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của con người chỉ có thể thông qua hoạt động thực tiễn, qua đó làm tích cực hóa nguồn nhân lực, tạo ra sự giải phóng cho tiềm năng của con người để dẫn tới sự sáng tạo của con người. Vấn đề là phải phát triển một nguồn nhân lực như thế nào, làm thế nào để khơi dậy và phát huy được vai trò của của nguồn nhân lực đó?
    Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin, để xây dựng CNXH và CNCS cần phải có một nguồn nhân lực có chất lượng, nguồn nhân lực đó chính là những con người mới XHCN. Thời Mác-Ăngghen, tuy chưa có những điều kiện khách quan cho sự ra đời của con người mới XHCN nhưng qua việc nghiên cứu những quy luật phát triển nội tại của CNTB, các ông đã phác họa những nét chính của con người mới đại diện cho nguồn nhân lực của chế độ xã hội mới. Đó là những con người phát triển toàn diện, không bị trói buộc suốt đời vào một sự phân công lao động nào, những con người lấy lao động làm nguồn hứng thú duy nhất trong đời sống, ngày càng có đầy đủ năng lực và phẩm chất để làm chủ thiên nhiên, làm chủ xã hội và làm chủ bản thân. Lênin cũng nói đến con người mới khá cụ thể, đó là những con người có tinh thần làm chủ tập thể, có năng lực làm chủ, hăng say lao động, coi trọng sản xuất, coi trọng của công, có kỷ luật tự giác cao, có tri thức khoa học, có khả năng tiếp thu những thành tựu mới nhất của nền văn minh hiện đại vì “người ta chỉ có thể trở thành người cộng sản sau khi làm giàu trí tuệ của mình bằng sự hiểu biết tất cả những kho tàng tri thức mà nhân loại đã tạo ra”[22, tr.8]. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, để xây dựng thành công CNXH thì phải có những con người XHCN, đó là những con người vừa “hồng vừa chuyên”, “vừa có đức vừa có tài”, những con người phát triển toàn diện cả về nhận thức, tình cảm và ý chí, những con người yêu nước, yêu chủ nghĩa quốc tế vô sản. Những luận điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là cơ sở lý luận của Đảng CSVN trong vấn đề đào tạo một nguồn nhân lực với những con người cường tráng về thể chất, trong sáng về tinh thần, có trí tuệ, phẩm chất đạo đức và nhân cách đáp ứng được sự nghiệp cách mạng của đất nước trong giai đoạn hiện nay. Việc tạo ra nguồn nhân lực để xây dựng xã hội là sự nghiệp của nhiều “binh chủng”, trong đó ngành GD-ĐT đóng vai trò quyết định.

    1.1.1.3. Giáo dục - đào tạo là nhân tố có ý nghĩa quyết định chất lượng nguồn nhân lực

    Nguồn nhân lực được phát triển bằng nhiều con đường khác nhau, song GD-ĐT là con đường có hiệu quả nhất. GD-ĐT là hoạt động đặc biệt chỉ có trong xã hội loài người, đó là hoạt động có tổ chức của xã hội nhằm bồi dưỡng và phát triển các phẩm chất và năng lực cho con người cả về tư tưởng, đạo đức, khoa học, sức khỏe và nghề nghiệp. Ngay từ khi CNXH còn là học thuyết, Mác-Ăngghen đã đánh giá cao vai trò của sự nghiệp giáo dục, các ông cho rằng giáo dục là nhiệm vụ cần thiết, bắt buộc đối với mọi người. Trong tác phẩm “Nguyên lý của CNCS” Mác-Ăngghen đã nói tới chế độ giáo dục trong một xã hội tổ chức theo nguyên tắc CSCN là “giáo dục công cộng, không mất tiền cho tất cả trẻ em”, giáo dục toàn diện cả “trí dục, thể dục” và “kỹ thuật bách khoa”. Các ông nhấn mạnh: sự nghiệp xây dựng xã hội mới trong đó cùng với phát triển kinh tế còn phải xây dựng văn hóa, đào tạo con người, vì thế cần phải chú ý đến nhiệm vụ giáo dục, coi đó là biện pháp hàng đầu để đào tạo con người mới với tư cách là chủ thể sáng tạo có ý thức của xã hội mới. Lênin đã vận dụng quan điểm của Mác-Ăngghen để phát triển giáo dục ở nước Nga ngay sau Cách mạng Tháng Mười. Trong lúc nước Nga còn đang rất khó khăn, nghèo về kinh tế, lạc hậu về văn hóa, Lênin đã nhận thấy việc nâng cao trình độ văn hóa, giáo dục và kỹ thuật là vô cùng cần thiết để thoát khỏi tối tăm, nghèo nàn, bệnh tật. Ông nhấn mạnh: lúc này Nhà nước Xô Viết phải coi phát triển giáo dục là một nhiệm vụ trọng tâm; tất cả mọi người, đặc biệt là thanh niên phải có nhiệm vụ “học tập” vì nếu không xây dựng được một nền học vấn hiện đại thì “CNCS cũng chỉ là một nguyện vọng mà thôi”[23, tr.175]. Những luận điểm của Mác-Ăngghen và Lênin cùng những kinh nghiệm thực tiễn về tầm quan trọng của giáo dục trong quá trình đào tạo con người mới để xây dựng xã hội mới đến nay vẫn còn nguyên giá trị và tiếp tục soi sáng cho các dân tộc muốn có sự phát triển nhanh và bền vững.

    Việt Nam là một dân tộc hiếu học, trọng tri thức, trọng học vấn. Từ ngàn xưa ông cha ta đã đúc kết nên bài học lịch sử: để xây dựng xã tắc vững bền, để quốc gia cường thịnh thì phải chăm lo cho nguồn lực trí tuệ của dân tộc. Nhà bác học Lê Quý Đôn đã từng khẳng định “phí trí bất hưng”, nhà chí sỹ yêu nước Phan Bội Châu cũng cho rằng “người Việt Nam phải ngẩng cao đầu để tự cứu lấy mình bằng tài năng và trí tuệ của mình, bằng việc khai trí và chấn hưng tân học”. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã học tập lý luận và kinh nghiệm thế giới, kế thừa và phát triển truyền thống dân tộc trong việc xây dựng một nền giáo dục tiến bộ phục vụ sự nghiệp cách mạng, xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường và mục tiêu đã lựa chọn.
    Ngay trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Nạn dốt là một trong những phương pháp độc ác mà bọn thực dân dùng để cai trị chúng ta Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu, vì vậy tôi đề nghị mở một chiến dịch chống nạn mù chữ” [34, tr.8]. Rằng phải xây dựng một nền giáo dục mới, “Vì lợi ích mười năm phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm phải trồng người”, vì “Muốn xây CNXH phải có con người XHCN” [37, tr.159].
    Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta nhận thức đầy đủ và sâu sắc hơn vai trò của nguồn nhân lực, coi con người vừa là động lực, vừa là mục tiêu của công cuộc phát triển KT-XH, con người là nguồn vốn, là tài sản quý giá nhất. Đảng ta khẳng định: “Để đáp ứng yêu cầu về con người và nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước trong thời kỳ CNH, HĐH, cần tạo chuyển biến cơ bản và toàn diện về giáo dục”[12, tr.201], vì “Phát triển GD-ĐT là một trong những động lực quan trọng của sự nghiệp CNH, HĐH, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững”[12, tr.108]. Với phương châm “giáo dục là quốc sách hàng đầu”, Đảng ta nhấn mạnh: một quốc gia phát triển cần có một nền kinh tế phát triển, một nền kinh tế có sức mạnh để phát triển cần phải tạo ra được một nguồn nhân lực với một trình độ trí tuệ ngang tầm thời đại và một nguồn chất xám cũng như nhân lực kỹ thuật đủ để luôn đổi mới sản xuất, nâng cao năng suất lao động, phát triển các hoạt động dịch vụ, hoạt động văn hóa, tinh thần, tất cả những điều này đều phụ thuộc vào GD-ĐT. Hơn nữa GD-ĐT đóng vai trò chủ đạo trong việc hình thành con người lao động mới - người công dân Việt Nam có lý tưởng XHCN, có lòng tự hào dân tộc, có khả năng tiếp thu những tiến bộ của KH&CN và tinh hoa văn hóa của nhân loại, có khả năng lao động và tạo ra ngày càng nhiều của cải vật chất cho xã hội. Với ý nghĩa đó Đảng ta chỉ rõ: GD-ĐT nguồn nhân lực là một một khâu chủ yếu trong toàn bộ quá trình phát triển nguồn lực của đất nước. Trên nền tảng học vấn phổ thông về tự nhiên, xã hội và nhân cách , GD-ĐT nguồn nhân lực phải hướng tới việc hình thành, phát triển kiến thức, kỹ năng lao động phù hợp với cách thức tổ chức, phân công lao động xã hội theo từng giai đoạn phát triển, trong các lĩnh vực hoạt động và điều kiện cụ thể.
    Những quan niệm trên là cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu về một bộ phận quan trọng của nguồn nhân lực, đó là học sinh THPT - đối tượng tác động và cũng là sản phẩm lao động của đội ngũ nhà giáo ở các trường THPT.
    1.1.2. Học sinh trung học phổ thông - nguồn nhân lực đang được đào tạo
    1.1.2.1. Một số đặc điểm của học sinh trung học phổ thông
    Theo điều 4 Luật Giáo dục (2005), giáo dục THPT là một bộ phận hữu cơ của giáo dục phổ thông, nằm trong cấu trúc chung của hệ thống giáo dục quốc dân. Căn cứ vào điều 83 Luật Giáo dục (2005), những người đang học tập tại các cơ sở giáo dục phổ thông (gồm bậc tiểu học và bậc trung học, trong bậc trung học có 2 cấp là cấp THCS và cấp THPT) và giáo dục nghề nghiệp (gồm các trường trung học chuyên nghiệp và dạy nghề) được gọi là học sinh.
    Kết hợp điều 4 và điều 83, có thể hiểu học sinh THPT là những người đang theo học ở cấp THPT, cấp học kế tiếp sau cấp THCS và “được thực hiện trong ba năm học, từ lớp 10 đến lớp 12. Học sinh vào học lớp 10 phải có bằng tốt nghiệp THCS, có tuổi là mười lăm ”[21, tr.20]. Điều lệ trường trung học (2000) cũng quy định rõ tuổi của học sinh THPT “là 15 đến 19”[14, tr.26].
    Theo quy định của luật Lao động nước ta, với lứa tuổi trên học sinh THPT là lực lượng nằm trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động và là bộ phận quan trọng của nguồn nhân lực. Đây là lứa tuổi có sự phát triển phức tạp cả về mặt sinh học và mặt xã hội, là thời kỳ học sinh bước vào giai đoạn cuối của quá trình chuẩn bị nền tảng cho sự tham gia của họ vào hoạt động nghề nghiệp và các dạng lao động xã hội. Xem xét nguồn nhân lực trên cả hai phương diện cá thể và xã hội thì học sinh THPT với tư cách là một bộ phận của nguồn nhân lực cũng được xem xét trên hai phương diện đó với những đặc điểm tâm sinh lý, những hoạt động đặc trưng và nhân cách xác định.
    Với độ tuổi từ 15 đến 19, học sinh THPT là những con người đang trưởng thành, có khả năng phát triển mạnh mẽ về trí tuệ và nhanh chóng về thể lực. Ở góc độ sinh học, đây là lứa tuổi đang dần hoàn thiện về cơ thể, là giai đoạn các em phát triển về chiều cao, trọng lượng và thể trạng với tốc độ nhanh. So với các thế hệ cha anh trước đây, học sinh THPT ngày nay do được sống trong hòa bình, do đời sống ngày một nâng cao và nhu cầu dinh dưỡng được đáp ứng ngày càng đầy đủ nên có sự phát triển tốt hơn về thể lực. Các em đã có một thể hình đẹp hài hòa, một sức khỏe dồi dào có thể đáp ứng được những đòi hỏi về sự hao phí các sức lực thần kinh, cơ bắp trong lao động với những đặc thù nghề nghiệp khác nhau. Hơn nữa ở độ tuổi này tính chủ định phát triển mạnh, khả năng quan sát, ghi nhớ đạt ở mức độ khá cao và giữ vai trò chủ đạo trong hoạt động trí tuệ, khả năng tư duy lý luận, tư duy trừu tượng cũng như năng lực tư duy độc lập sáng tạo được hình thành, phát triển và ngày càng hoàn thiện. Đây chính là cơ sở để học sinh THPT có thể tiếp nhận và xử lý một khối lượng lớn tri thức, là điều kiện để bồi dưỡng trí tuệ, tay nghề, để trang bị chuyên môn, nghề nghiệp và là giá đỡ cho tiềm năng sáng tạo của các em trong tư cách nguồn nhân lực. Ở góc độ tâm lý, học sinh THPT thích cái mới, thích khám phá, sáng tạo, giàu óc tưởng tượng, nhiều ước mơ, hoài bão, có nhu cầu tìm hiểu, nhu cầu tình bạn, tình yêu Những đặc điểm này đã tác động rất mạnh đến sự hình thành tư tưởng của các em, khi các em xác định được niềm tin, lý tưởng thì các em có thể xả thân vì lý tưởng và phấn đấu với niềm lạc quan, với sức sống mạnh mẽ để đạt được niềm tin và lý tưởng đó. Ở các em không có tính bảo thủ, trì trệ, dễ thích ứng với đường lối đổi mới, rất quan tâm đến tương lai nên cũng rất quan tâm đến những vấn đề lớn của đất nước, của thời cuộc. Đây là điều kiện để học sinh THPT xác định được phương hướng tiến thân, lập nghiệp và xây dựng sự nghiệp cho mình.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...