Tiểu Luận Nguồn gốc và bản chất lợi nhuận

Thảo luận trong 'Kinh Tế Chính Trị' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Đề tài:Nguồn gốc và bản chất lợi nhuận


    LỜI NÓI ĐẦU



    Năm 1986,Việt Nam chuyển cơ chế kinh tế từ kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường. Cùng với sự chuyển đổi sang cơ chế thị trường một loại những phạm trù mới xuất hiện khác hẳn với nền kinh tế tập trung bao cấp trước đây đặc biệt là vấn đề lợi nhuận. Chúng ta đã một thời coi lợi nhuận là một cái gì đó xấu xa, là một phạm trù hoàn toàn xa lạ với nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Hiện nay nước ta đang vận hành nền kinh tế theo cơ chế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước thì lợi nhuận là vấn đề trung tâm. Nhà nước, doanh nghiệp, cá nhân khi bắt tay vào sản xuất kinh doanh đều muốn thu lợi nhuận. Lợi nhuận là mục đích của mọi ngành nghề, mọi nhà kinh doanh. Lợi nhuận là phần thưởng cho sự lao động, sáng tạo, năng động của con người trong qúa trình sản xuất kinh doanh. Lợi nhuận có vai trò nhất định trong nền kinh tế hiện nay. Vậy nguồn gốc, bản chất lợi nhuận là gì và vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường hiện nay như thế nào là vấn đề mà đề án này đề cập tới.

    I. NGUỒN GỐC BẢN CHẤT CỦA LỢI NHUẬN

    1. Các quan điểm trước Mác về lợi nhuận.

    Lợi nhuận xuất hiện từ rất lâu cùng với sự phát triển của kinh tế hàng hoá. Trước Mác có rất nhiều quan điểm của các trường phái khác nhau về vấn đề lợi nhuận.

    a. Quan điểm của nghĩa trọng thương về lợi nhuận.

    Chủ nghĩa trọng thương là tư tưởng kinh tế của giai cấp tư sản trong giai đoạn phương thức sản xuất phong kiến tan rã và chủ nghĩa tư bản ra đời. Nguyên lý cơ bản trong học thuyết của những người trọng thương; lợi nhuận được tạo ra trong lĩnh vực lưu thông, nó là kết quả của trao đổi không ngang giá, do lừa gạt mà có. Những người trọng thương cho rằng". Trong hoạt động thương nghiệp phải có một bên được một bên mất, dân tộc nàylàm giàu thì dân tộc khác phải chịu thiệt thòi. Trong hoạt động thương nghiệp, nội thương có tác dụng phân phối lại của cải từ túi người này sang túi người khác, chỉ có ngoại thương mới đem lại của cải cho quốc gia. Những người theo chủ nghĩa trọng thương quan niệm rằng tiền tệ là tiêu chuẩn căn bản của cải dân tộc; xuất khẩu tiền tệ ra nước ngoài thì làm giảm của cải , nhập khẩu tiền tệ thì làm tăng của cải. Xuất phát tư quan điểm ấy, chủ nghĩa trọng thương trong thời kỳ đầu - với thuyết bảng cân đối tiền tệ - chủ trương cấm xuất khẩu tiền ra nước ngoài. Họ cho rằng điều kiện cần thiết để tăng của cải trong nước là bảng cân đối nhập siêu (tiền nhập vượt mức xuất). Thời kỳ cuối trường phái trong thương - với thuyết bảng cân đối thương mại - không phản đối việc xuất khẩu tiền tệ và cần thiết để tăng thêm của cải trong nước. Để tăng thêm của cải, một nước không nên nhập khẩu hàng hoá nhiều hơn xuất khẩu. Tuy nhiên, từ giữa thế kỷ XVII trở đi, chủ nghĩa trọng thương dần dần tan rã, theo đà phát triển của chủ nghĩa tư bản, cách thức chủ yếu để tăng thêm của cải không đơn thuần là tích luỹ tiền tệ nữa mà là tái sản xuất mở rộng tư bản chủ nghĩa. Trung tâm, chú ý của các nhà kinh tế học ngày càng chuyển từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản xuất.

    b. Quan điểm của trường phái cổ điển Anh về lợi nhuận.

    Cùng với sự vận động và phát triển của sản xuất tư bản tư bản chủ nghĩa, học thuyết kinh tế của những người trọng thương trở thành phiến diện lỗi thời đòi hỏi phải có lý luận mới và trên cơ sở đó kinh tế chính trị học cổ điển Anh ra đời.

    Trường phái cổ điển cho rằng lợi nhuận được sinh ra từ lĩnh vực sản xuất vật chất bằng cách bóc lột lao động sản xuất những người làm thuê. Giai cấp tư sản lúc này đã nhận thức được "Muốn giàu phải bóc lột lao động, lao động làm thuê của những người nghèo là nguồn gốc làm giàu vô tận cho những người giàu". William Petty, Ađam Smith David Ricardo, những tác giả tiêu biểu của trường phái cổ điển Anh, đều nêu lên quan điểm của mình về lợi nhuận.

    Wiliam Petty (1623 - 1678): phái trọng thương bỏ qua vấn đề địa tô nhưng Petty đã tìm thấy nguồn gốc của địa tô ở trong lĩnh vực sản xuất. Ông định nghĩa địa tô là số chênh lệch giữa giá trị sản phẩm và chi phí sản xuất (bao gồm chi phí tiền lương, chi phí giông má). Thực ra ông không rút ra được lợi nhuận kinh doanh ruộng đất nhưng theo logic có thể rút ra được kết luận, công nhân chỉ nhận được tiền lương tối thiểu số còn lại là lợi nhuận của địa chủ. Petty coi lợi tức là tô của tiền và cho rằng nó lệ thuộc vào mức địa tô (trên đất mà người ta có thể dùng tiền vay để mua). Ông coi lợi tức là số tiền thưởng, trả cho sự nhịn ăn tiêu, coi lợi tức cũng như tiên thuê ruộng.

    Ađam Smith (1723 - 1790): Theo Ađam Smith, lợi nhuận là" khoản khấu trừ thứ hai" vào sản phẩm của người lao động, là một trong những nguồn gốc đầu tiên của thu nhập cũng như của mọi giá trị trao đổi. Ông cho rằng giá cả lao động nông nghiệp và lao động công nghiệp đều tạo ra lợi nhuận. Smith coi lợi nhuận trong nhiều trường hợp chỉ là món tiền thưởng cho việc mạo hiểm và cho lao động khi đầu tư tư bản. Lợi nhuận do toàn bộ tư bản đẻ ra. Lợi nhuận tăng hay giảm tuỳ thuộc vào sự giàu có tăng hay giảm của xã hội. Ông thừa nhận sự đối lập giữa tiền công và lợi nhuận. Smith đã nhìn thấy" khuynh hướng thường xuyên đi đến chỗ ngang nhau" của tỷ xuất lợi nhuận trên cơ sở cạnh tranh giữa các ngành và khuynh hướng tỷ xuất lợi nhuận giảm sút. Theo Ông tư bản đầu tư càng nhiều thì tỷ xuất lợi nhuận càng thấp.

    David Ricardo (1772 - 1823): Ricardo cho rằng lợi nhuận là phần giá trị thừa ra ngoài tiền công. Ông coi lợi nhuận là lao động không được trả công của công nhân. Ricardo đã có những nhận xét tiến gần đến lợi nhuận bình quân, ông cho rằng những tư bản có đại lượng bằng nhau thì đem lại lợi nhuận như nhau. Giữa tiền lương và lợi nhuận có sự đối kháng; năng xuất lao động tăng lên thì tiền lương giảm và lợi nhuận tăng. Mặc dù ông chưa biết đến phạm trù giá trị thặng dư nhưng trước sau vẫn nhất quán quan điểm cho rằng giá trị do công nhân tạo ra lớn hơn số tiền mà họ nhận được.

    2. Lý luận về lợi nhuận của Mác.

    Mác đã kế thừa những hạt nhân hợp lý của kinh tế chính trị học tư sản cổ điển, phát triển nó một cách xuất sắc và thực hiện một cuộc cách mạng trong lĩnh vực kinh tế chính trị học.

    a. Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa.

    Để tạo ra giá trị hàng hoá cần phải chi một số lao động nhất định là lao động quá khứ và lao động hiện tại.

    Lao động quá khứ (lao động vật hoá) tức là giá trị của tư liệu sản xuất (c). Giá trị của tư liệu sản xuất nhờ lao động cụ thể của công nhân được bảo tồn và di chuyển vào gía trị của sản phẩm mới.

    Lao động hiện tại (lao động sống) tức là lao động tạo ra giá trị mới (v+m). Giá trị mới này là do lao động trừu tượng của công nhân tạo ra trong quá trình lao động. Phần giá trị mới lớn hơn giá trị sức lao động, nó bằng giá trị sức lao động cộng thêm với giá trị thặng dư.

    Như vậy đứng trên quan điểm xã hội mà xét thì chi phí thực tế để sản xuất ra hàng hoá (c+v+m).

    Trên thực tế, nhà tư bản ứng tư bản để sản xuất hàng hoá tức là họ ứng ra một số tư bản để mua tư liệu sản xuất (c) và mua sức lao động (v). Do đó nhà tư bản chỉ xem hao phí hết bao nhiêu tư bản chứ không tính xem hao phí hết bao nhiêu lao động xã hội. Mác gọi chi phí đó là chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa và ký hiệu bằng k (k=c+v).

    Vậy chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa là chi phí về tư bản mà nhà tư bản bỏ ra để sản xuất hàng hoá.

    Khi xuất hiện chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa thì công thức giá trị hàng hoá (gt=c+v+m) chuyển thành (gt=k+m).

    b. Quá trình tạo ra giá trị thặng dư.

    Giá trị thặng dư là giá trị mới đã ra ngoài giá trị sức lao động do công nhân tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không. Để hiểu rõ về quá trình ra gía trị thặng dư ta xét bài toán sau.

    Giả định để sản xuất ra 10 kg sợi cầu 10kg bông, giá 10kg bông là 10 đôla. để biến số bông đó thành sợi, một công nhân phải lao động trong 6giờ và hao mòn máy móc là 2 đôla, giá trị sức lao động trong một ngày lao động của công nhân là 3 đôla; trong một giờ lao động người công nhân tạo ra một giá là 0,5 đôla; Cuối cùng ta giả định rằng trong quá trình sản xuất sợi đã hao phí theo thời gian lao động xã hội cần thiết.

    Với giả định như vậy, nếu quá trình lao động chỉ kéo dài đến cái điểm mà ở đó bù đắp được gía trị sứclao động (6giờ) thì chưa sản xuất ra giá trị thặng dư. Trên thực tế quá trình lao động không dừng lại ở đó. Nhà tư bản đã trả tiền mua sức lao động trong một ngày. Vậy việc sử dụng các sức lao động trong ngày thuộc về nhà tư bản.
     
Đang tải...