Tiến Sĩ Ngôn từ nghệ thuật thơ mới

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 24/11/13.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Luận án tiến sĩ năm 2013
    Đề tài: Ngôn từ nghệ thuật thơ mới

    MỤC LỤC
    Lời cam đoan
    Mục lục
    MỞ ĐẦU
    1. Lý do chọn đề tài
    2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
    3. Mục đích nghiên cứu
    4. Nhiệm vụ nghiên cứu
    5. Phương pháp nghiên cứu
    6. Đóng góp mới của luận án
    7. Cấu trúc của luận án
    NỘI DUNG
    CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
    NGÔN TỪ NGHỆ THUẬT THƠ MỚI
    1.1. Nghiên cứu về ngôn từ nghệ thuật Thơ mới giai đoạn 1932 - 1945
    1.2. Nghiên cứu về ngôn từ nghệ thuật Thơ mới giai đoạn 1945 - 1985
    1.3. Nghiên cứu về ngôn từ nghệ thuật Thơ mới từ 1986 đến nay

    CHƯƠNG 2: THƠ MỚI – MỘT HÌNH THỨC GIAO TIẾP NGHỆ THUẬT MỚI
    2.1. Ngôn từ nghệ thuật - một hình thức giao tiếp đặc biệt
    2.1.1. Khái niệm ngôn từ và ngôn từ nghệ thuật
    2.1.2. Đặc trưng của ngôn từ nghệ thuật và ngôn từ nghệ thuật thơ
    2.2. Giao tiếp nghệ thuật Thơ mới - một hiện tượng văn hóa mới
    2.2.1. Những tiền đề lịch sử, văn hóa, xã hội dẫn đến sự ra đời của Thơ mới
    2.2.2. Chủ thể lời nói trong giao tiếp nghệ thuật Thơ mới
    2.2.2. Loại hình ngôn từ và tổ chức giao tiếp nghệ thuật Thơ mới

    CHƯƠNG 3 : ĐẶC TRƯNG NGÔN TỪ NGHỆ THUẬT THƠ MỚI
    3.1. Ngôn từ Thơ mới mang đậm tính chủ quan, thiên về cảm xúc, cảm giác
    3.1.1. Sự chủ thể hóa ngôn từ Thơ mới
    3.1.2. Sự đa điệu của cảm xúc, cảm giác
    3.2. Ngôn từ Thơ mới tiếp nối và phát triển ngôn ngữ thơ trữ tình truyền thống
    3.2.1. Tiếp nối và phát triển ngôn ngữ thơ trữ tình dân gian
    3.2.2.Tiếp thu những sáng tạo ngôn ngữ thơ trữ tình trung đại
    3.2.3. Dịch chuyển gần hơn với ngôn ngữ đời sống
    3.3. Ngôn từ Thơ mới có sự kết hợp giữa thơ Đường và thơ Pháp
    3.3.1. Từ xung khắc đến hòa giải
    3.3.2. Sự ra đời của một hình thức ngôn từ mới: hiện đại đầy cá tính

    CHƯƠNG 4: TỔ CHỨC VĂN BẢN NGÔN TỪ NGHỆ THUẬT THƠ MỚI
    4.1. Từ ngữ Thơ mới phong phú, đa dạng
    4.1.1. Sáng tạo từ ngữ trên cơ sở kết ghép
    4.1.2. Sáng tạo từ ngữ theo cơ chế chuyển nghĩa
    4.2. Cú pháp Thơ mới linh hoạt, sáng tạo
    4.2.1. Xu hướng kế thừa cú pháp câu thơ truyền thống
    4.2.2. Xu hướng nới lỏng cú pháp câu thơ Đường luật
    4.2.3. Những bứt phá mới
    4.3. Tổ chức bài thơ trong Thơ mới tự do, phóng khoáng
    4.3.1. Tổ chức bài thơ theo dòng âm thanh ngôn ngữ
    4.3.2. Tổ chức bài thơ theo dòng cảm xúc
    4.3.3. Tổ chức bài thơ theo dòng tự sự
    KẾT LUẬN
    DANH MỤC BÀI BÁO, CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG
    BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

    MỞ ĐẦU
    1. Lý do chọn đề tài
    1.1. Ngôn từ là yếu tố thứ nhất của văn học. Sáng tạo, tiếp nhận và đánh giá văn học nói chung và thơ nói riêng không thể thiếu được yếu tố này. Ngôn từ nghệ thuật (ngôn từ văn học) là một sự phân tầng khác của ngôn ngữ tự nhiên, “tương xâm” nhưng không đồng nhất với ngôn ngữ tự nhiên. Nếu ngôn ngữ tự nhiên thường mang tính ổn định, thì ngôn từ nghệ thuật - đặc biệt là ngôn từ thơ - với tư cách là một “mã” nghệ thuật lại luôn thay đổi. Mỗi thời đại văn học, mỗi trào lưu, khuynh hướng và mỗi tác giả lại có cách sử dụng ngôn ngữ riêng để mang đến một “thực tại” và hình thức mới cho ngôn từ nghệ thuật thơ.
    1.2. Trong dòng chảy của thơ ca Việt Nam, phong trào Thơ mới (1932 – 1945) là một hiện tượng độc đáo, đặc sắc. Trên hành trình sáng tạo, các nhà Thơ mới đã đạt được thành công rực rỡ, đặt nền móng vững chắc cho công cuộc hiện đại hóa thơ Việt Nam. Hơn tám thập kỷ đã trôi qua, từ khi có “một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ” đến nay, Thơ mới vẫn luôn thu hút sự quan tâm, yêu mến của độc giả và của giới nghiên cứu - phê bình văn học. Đặc biệt, những sáng tạo của Thơ mới về ngôn từ nghệ thuật luôn hấp dẫn người sáng tác, người thưởng thức và những người nghiên cứu thơ.
    1.3. Các công trình nghiên cứu và bài viết về Thơ mới đã khám phá ngôn từ thơ ở nhiều phương diện như: vần thơ, nhịp thơ, nhạc điệu, từ ngữ, phương thức biểu đạt, cấu trúc ngôn ngữ Tuy nhiên, những khám phá, phân tích, lý giải chủ yếu tập trung vào khẳng định sức sáng tạo của từng cây bút hoặc nét độc đáo của từng thi phẩm. Trên hành trình nghiên cứu Thơ mới, nhiều vấn đề đã được bàn đến, những thành tựu và cả phần hạn chế của Thơ mới đã được khẳng định. Tuy nhiên, vấn đề ngôn từ nghệ thuật Thơ mới vẫn thiếu cái nhìn,
    toàn diện, hệ thống và còn có những điểm cần tiếp tục đi sâu tìm hiểu, phân tích, tổng hợp.
    Tiếp thu thành tựu của những người đi trước, tìm hiểu kết quả nghiên cứu về ngôn từ nghệ thuật những thập niên gần đây, chúng tôi thấy rằng, đã đến lúc cần thiết và có cơ sở để thực hiện một công trình nghiên cứu chuyên sâu về ngôn từ nghệ thuật Thơ mới; tiếp tục đáp ứng nhu cầu thưởng thức, khám phá hiện tượng văn học độc đáo, đặc sắc này khi trình độ tiếp nhận văn học và hiểu biết về Thơ mới của độc giả ngày càng được mở rộng, nâng cao. Từ việc tập trung nhận diện, phân tích, đánh giá đặc trưng ngôn từ nghệ thuật Thơ mới, luận án góp phần khẳng định những đóng góp đáng trân trọng của
    Thơ mới trong quá trình hiện đại hóa ngôn ngữ văn học Việt Nam thế kỷ XX. 1.4. Thơ mới có một vị trí quan trọng trong chương trình Ngữ văn ở các bậc học. Thực tiễn giảng dạy và học tập về Thơ mới đòi hỏi sự chiếm lĩnh ngày càng sâu sắc những sáng tạo nghệ thuật của các nhà thơ, giúp người dạy và người học nhận thức vai trò và ý nghĩa của “cuộc cách mạng thơ ca” - đặc biệt là trên phương diện thể loại và ngôn ngữ - mà các nhà Thơ mới đã đóng góp cho nền văn học nước nhà. Việc tìm hiểu, nghiên cứu nhằm đáp ứng nhu cầu giảng dạy, học tập Thơ mới nói riêng và văn học Việt Nam hiện đại nói chung trong nhà trường cũng là một lý do thôi thúc chúng tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài này. Hy vọng kết quả nghiên cứu vấn đề Ngôn từ nghệ thuật Thơ mới không chỉ có ý nghĩa thiết thực đối với tác giả luận án mà còn có ý nghĩa tích cực đối với thực tiễn nghiên cứu, dạy và học môn Ngữ văn trong nhà trường. Xuất phát từ những yêu cầu khoa học và nhu cầu thực tiễn trên, chúng tôi lựa chọn đề tài: Ngôn từ nghệ thuật Thơ mới.
    2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
    2.1. Đối tượng nghiên cứu
    Luận án xác định đối tượng nghiên cứu là ngôn từ nghệ thuật trong các sáng tác của các nhà Thơ mới 1932 – 1945.
    2.2. Phạm vi nghiên cứu
    Trong quá trình thực hiện đề tài, tập trung vào đối tượng nghiên cứu, chúng tôi khảo sát, nghiên cứu sáng tác của các tác giả Thơ mới qua các tuyển tập thơ và các tập thơ được xuất bản hoặc tái bản trong nước từ trước Cách mạng tháng Tám đến nay, cụ thể là:
    - Thi nhân Việt Nam (Hoài Thanh – Hoài Chân, Nxb Văn học, Hà Nội, 1998, in lần thứ 14)[172].
    - Thơ mới (1932 - 1945): Tác giả và tác phẩm (Nxb Hội Nhà văn, H., 2006, in lần thứ 6) [187].
    Các tập thơ tiêu biểu trong phong trào Thơ mới:
    - Tâm hồn tôi của Nguyễn Bính (Impr. de Lê Cường, 1941) [11].
    - Lửa thiêng của Huy Cận (Nxb Đời nay, 1940) [12].
    - Thơ thơ (Nxb Hội Nhà văn, 1992, theo đúng bản in năm 1938) [23],
    Gửi hương cho gió của Xuân Diệu (Nxb Thời đại, 1945) [24].
    - Hoa niên của Tế Hanh(Nxb Đời nay, 1945) [60].
    - Mê hồn ca của Đinh Hùng (Nxb Hội Nhà văn, tái bản, 1995) [71].
    - Tinh huyết của Bích Khê (Trọng Miên xuất bản, 1940) [82].
    - Tiếng thu của Lưu Trọng Lư (Impr. de Lê Văn Phúc, 1939) [103].
    - Mấy vần thơ của Thế Lữ (Nxb Đời nay, 1941) [104].
    - Gái quê của Hàn Mặc Tử (Nxb Hội Nhà văn, tái bản, 1992) [217].
    - Điêu tàn của Chế Lan Viên (Nxb Hội Nhà văn, 1992, theo đúng bản in
    năm 1938) [218]
    3. Mục đích nghiên cứu
    - Nhận diện, phân tích, khái quát những đặc trưng cơ bản, cách thức tổ chức và những đặc sắc trong tổ chức văn bản ngôn từ nghệ thuật Thơ mới. Khẳng định những đóng góp đáng trân trọng của Thơ mới trong quá trình hiện đại hóa thơ ca và hành trình cách tân ngôn ngữ văn học Việt Nam.
    - Khẳng định mối quan hệ biện chứng giữa sáng tạo ngôn từ và tư tưởng nghệ thuật, giữa hình thức và nội dung; sự quy định của ý thức xã hội, trạng thái tri thức và hệ thống quyền lực đối với sáng tạo ngôn từ nghệ thuật.
    - Luận án cũng hướng tới khẳng định một hướng tiếp cận có hiệu quả trong nghiên cứu, tiếp nhận và thưởng thức thơ ca.
    4. Nhiệm vụ nghiên cứu
    Luận án đặt ra nhiệm vụ nghiên cứu sau: 1) Khảo sát tình hình nghiên cứu ngôn từ nghệ thuật Thơ mới; 2) Tìm hiểu cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn về ngôn từ nghệ thuật và ngôn từ nghệ thuật Thơ mới; 3) Khái quát quá trình hình thành hình thức giao tiếp nghệ thuật mới từ hiện tượng Thơ mới; 4) Chỉ ra đặc trưng cơ bản và tổ chức văn bản nghệ thuật Thơ mới.
    5. Phương pháp nghiên cứu
    5.1. Phương pháp cấu trúc - hệ thống
    Nghiên cứu hệ thống bao hàm trong nó cả sự phân tích cấu trúc. Ngôn từ nghệ thuật là một hệ thống cấu trúc bao gồm nhiều yếu tố có quan hệ chặt chẽ với nhau. Vì vậy tất cả các vấn đề cụ thể được triển khai trong luận án đều được đặt trong sự chi phối và tương tác với những yếu tố khác. Bởi vậy phương pháp này giúp chúng tôi tiếp cận một cách hệ thống các yếu tố cấu thành tạo nên chỉnh thể ngôn từ nghệ thuật Thơ mới, sự tương tác giữa các thành tố ngôn từ.
    5.2. Phương pháp thống kê, so sánh
    Phương pháp này giúp chúng tôi thống kê, phân loại và mô tả cụ thể đặc
    điể m ngôn từ nghệ thuật Thơ mới từ những khảo sát tin cậy với những số liệu
    cụ thể làm cơ sở chắc chắn cho quá trình triển khai các luận điểm khoa học
    của luận án. Tuy nhiên, để làm nổi bật nét đặc sắc và sự khác biệt, sự tiếp nối
    và phát triển của ngôn từ nghệ thuật Thơ mới, bên cạnh thao tác thống kê
    chúng tôi thường xuyên sử dụng thao tác so sánh nhằ m phát hiện, lý giả i
    những yếu tố ảnh hưởng, tiếp biến, gặp gỡ, giao thoa và những cách tân ngôn
    từ trong thời đại Thơ mới và trong thơ ca Việt Nam.
    5.3. Phương pháp phân tích văn bản
    Nếu phương pháp cấu trúc – hệ thống tạo nên diện thì việc phân tích văn
    bản sẽ là điểm nhấn quan trọng tạo nên điểm của công trình nghiên cứu. Việc
    đặt văn bản trong mối tổng hòa với hàng loạt tương quan và phân tích tháo gỡ
    những tương quan hữu cơ đó được xem như sự minh họa sinh động gắn với
    từng yêu cầu cụ thể của luận án.
    5.4. Phương pháp nghiên cứu liên ngành
    Luận án vận dụng tổng hợp phương pháp nghiên cứu khoa học của nhiề u
    chuyên ngành: ký hiệu học, thi pháp học, ngôn ngữ học, lý thuyết thông tin
    nhằm khám phá đặc trưng của ngôn từ nghệ thuật Thơ mới. Tác giả luận án
    cũng ý thức được rằng, vấn đề ngôn từ nghệ thuật còn liên quan đến nhiều
    lĩnh vực khoa học như: văn hóa học, dân tộc học .Vận dụng phương pháp
    nghiên cứu liên ngành, tác giả luận án mong muốn tránh được cái nhìn đơn
    giản, phiến diện và những kết luận một chiều đối với kết quả nghiên cứu.
    Sử dụng các phương pháp trên trong quá trình triển khai luận án, chúng
    tôi mong muốn đạt được mục đích nghiên cứu đã đề ra, đáp ứng tốt yêu cầu
    của luận án.
    6
    6. Đóng góp mới của luận án
    Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diện và hệ thống về
    Ngôn từ nghệ thuật Thơ mới.
    Luận án đã phân tích cụ th ể những yếu tố nội sinh, ngoại sinh, những điều
    kiện văn hóa, lị ch sử như là những tiền đề quan trọng tạo nên sự thay đổi của
    ngôn từ nghệ thu ật Thơ mới . Luận án khẳng định: Thơ mới là m ột hình thức diễn
    ngôn nghệ thu ật m ới khác bi ệt v ới loại hình diễn ngôn thơ ca trước và sau nó.
    Luận án đã khái quát những đặc trưng cơ bản của ngôn từ nghệ thuật Thơ
    mới với những biểu hiện chủ yếu: mang đậm tính chủ quan, thiên về cảm xúc,
    cảm giác, hiện đại và đầy cá tính. Luận án cũng cho rằng, sự đổi m ới của ngôn
    từ nghệ thuật Thơ m ới là kết quả của quá trình tiếp thu và tiếp nhân những tinh
    hoa nghệ thuật thơ ca truyền thống, tinh hoa nghệ thuật thơ ca nhân loại. Đây là
    sản phẩm của quá trình giao lưu và tiếp biến văn hóa.
    Luận án đã lựa chọn và khai thác một số bình diện tiêu biểu trong tổ chức
    văn bản ngôn từ nghệ thuật Thơ mới như: từ ngữ, cú pháp và tổ chức bài thơ;
    trên cơ sở đó, luận án khẳng định những cách tân, những bứt phá mới và quá
    trình hiện đại hóa ngôn ngữ thơ của thế hệ thi nhân Thơ mới.
    Kết quả của luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho công
    tác nghiên cứu, dạy và học thơ ca Việt Nam hiện đại ngành Ngữ văn trong các
    trường Cao đẳng, Đại học.
    7. Cấu trúc của luận án
    Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, phần nội dung chính
    của luận án gồm bốn chương như sau:
    Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu ngôn từ nghệ thuật Thơ mới
    Chương 2: Thơ mới – Một hình thức giao tiếp nghệ thuật m ới
    Chương 3: Đặc trưng ngôn từ nghệ thuật Thơ mới
    Chương 4: Tổ chức văn bản ngôn từ nghệ thuật Thơ mới
    7

    NỘI DUNG
    CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH
    NGHIÊN CỨU NGÔN TỪ NGHỆ THUẬT THƠ MỚI
    Hơn tám mươi năm qua, kể từ khi xuất hiện trên thi đàn Việt Nam đến
    nay, Thơ mới đã được nghiên cứu ở nhiều góc độ. Ý kiến đánh giá về Thơ
    mới khá đa chiều, đa diện, phản ánh sự phong phú trong cảm nhận nghệ thuật
    và nghiên cứu khoa học của giới học thuật nước nhà. Những nhận định, đánh
    giá về Thơ mới cho thấy quy luật nghiệt ngã của sáng tạo nghệ thuật: có thành
    công, có thất bại; có khi được đón nhận, có khi bị khước từ, phê phán Tuy
    nhiên, đóng góp của Thơ mới ngày càng được khẳng định; các công trình
    nghiên cứu về Thơ mới không ngừng tăng theo thời gian.
    Quá trình triển khai đề tài, chúng tôi đã tập hợp một khối lượng lớn các
    công trình nghiên cứu về Thơ mới; từ đó, tập trung vào các ý kiến, luận giải,
    đánh giá về ngôn từ nghệ thuật Thơ mới. Trong phần Tổng quan nghiên cứu
    của luận án, kết quả khảo sát những công trình, chuyên luận, những bài báo
    liên quan gần và trực tiếp đến ngôn từ nghệ thuật Thơ mới được tổng hợp, sắp
    xếp theo trình tự thời gian; theo đó, có thể khái quát tình hình nghiên cứu
    ngôn từ nghệ thuật Thơ mới qua các giai đoạn như sau:
    1.1. Nghiên cứu về ngôn từ nghệ thu ật Thơ mới giai đoạn 1932 - 1945
    Ngày 10/3/1932, thời điểm Phan Khôi đưa Một lối thơ trình chánh giữa
    làng thơ [184, tr.51-54] được xem là một mốc quan trọng chính thức đánh dấu
    sự ra đời của Thơ mới. Sự hiện diện của Thơ mới đã làm đảo lộn khuynh
    hướng tư tưởng, làm thay đổi nhận thức và tư duy thơ từng tồn tại hàng ngàn
    năm trong nền thi ca Việt Nam. Cùng với sự xuất hiện của Thơ mới, diễn đàn
    8
    thơ từ Bắc vào Nam trở nên sôi động. Nhiều vấn đề về ngôn từ thơ đã được đề
    cập đến qua các cuộc diễn thuyết và trên báo chí đương thời.
    Người công kích Thơ mới đầu tiên và mạnh mẽ nhất có lẽ là ông Vân
    Bằng. Mũi nhọn công kích chĩa thẳng vào Phan Khôi. Trên An Nam tạp chí số
    39 ngày 30.4.1932, Vân Bằng đã phản ứng lại bằng bài: Tôi thất vọng vì Phan
    Khôi [184, tr.55-56]. Với thái độ mỉa mai ông viết: “Ông Phan Khôi là một
    nhà đại danh nho, đại tư tưởng, đại lý thuyết Vừa đây, ông lại ra công
    “sáng chế” một lối thơ “tân thời, tự do đặc biệt”, không cần niêm luật, tự ý
    vắn dài ” [184, tr.55].
    Trước sự “dị ứng” của Vân Bằng, các “chiến sĩ” Thơ mới đã lên tiếng.
    Trong Phong hóa số 14 ngày 22/9/1932, mục Thơ, Văn Lực tỏ rõ sự phản đối
    thơ cũ, bênh vực Thơ mới và kêu gọi: “Bỏ luật, niêm, đối, bỏ điển tích, sáo
    ngữ, , đừng bắt chước cổ nhân một cách nô lệ. Thơ ta phải mới, mới văn thể,
    mới ý tưởng” [105]. Trong Phụ nữ tân văn số 153 tháng 6 năm 1932, Lưu
    Trọng Lư gửi Bức thư ngỏ cùng Phan Khôi tỏ ý hưởng ứng Thơ mới và trách
    Phan Khôi “đánh trống bỏ dùi”. Phong hoá số 31 ngày 31/1/1933 đăng lại bài
    này với tựa đề Lối Thơ mới [102] nhắc lại lời hô hào của số báo trước:
    “Phong hóa đã bàn về những chỗ không hay, không hay vì bị bó buộc vào
    trong khuôn sáo của của lối thơ Đường luật” và kêu gọi “m ở rộng lãnh thổ”,
    “đem cái thiên tài phú bẩm ra mà đua bơi, vẫy vùng”.
    Sang năm 1933, không khí tranh luận trở nên gay gắt. Thời gian này,
    trên các báo: Văn học tạp chí, Nam phong, Tiếng dân, Văn học tuần san, Tin
    văn xuất hiện nhiều bài viết kịch liệt phê phán Thơ mới, ngợi ca Thơ cũ.
    Trên Văn học tạp chí, Chất Hằng Dương Tự Quán liên tiếp tấn công Thơ mới
    bằng các bài: Ấm Hiếu không thể làm Tú Khôi, hay là, Một cái tỉ hiệu giữa
    Phan Khôi và Nguyễn Khắc Hiếu (số 18, ngày 1/6/1933), Thơ mới (số 22,
    ngày 1/8/1933), Làm thế nào để đổi mới thơ (số 23 ngày 15/8/1933). Thương

    TÀI LIỆU THAM KHẢO
    Tiếng Việt
    1. Trần Đình Sử (1997), Những Aristote (2007), Nghệ thuật thơ ca, In lần
    thứ 5, Lê Đăng Bảng, Thành Thế Thái Bình, Đỗ Xuân Hà, Thành Thế
    Yên Báy dịch, Đoàn Tử Huyến hiệu đính, Nxb Lao động - Trung tâm
    Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội.
    2. Vũ Tuấn Anh tuyển chọn và giới thiệu (2003), Chế Lan Viên về tác gia
    và tác phẩm, Tái bản lần thứ hai, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
    3. Vũ Tuấn Anh tuyển chọn và giới thiệu (2009), Tế Hanh tác phẩm chọn
    lọc, Nxb Giáo dục Việt Nam.
    4. Lê Thị Anh (2007), Thơ mới với thơ Đường, Nxb Văn học, Hà Nội.
    5. Phạm Đình Ân (2006), Vị trí của Thế Lữ trong tiến trình văn học Việt
    Nam hiện đại, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Viện Văn học, Hà Nội.
    6. B.M. Eikhenbaum (2012), Nhạc điệu câu thơ trữ tình Nga – Những vấn
    đề phương pháp luận, Lã Nguyên dịch,
    http://phebinhvanhoc.com.vn.
    7. Lê Bảo (2005), Thơ Việt Nam tác giả, tác phẩm, lời bình, Nxb Giáo dục,
    Hà Nội.
    8. Nguyễn Tường Bách (1934), “Thơ mới”, Báo Phong hóa số 97,
    ph_097_11_may_1934.dpf-Adobe Reader.
    9. Diệp Quang Ban (2009), Giao tiếp, diễn ngôn và cấu tạo văn bản, Nxb
    Giáo dục, Hà Nội.
    10. Nguyễn Duy Bắc (1998), Bản sắc dân tộc trong thơ ca Việt Nam hiện
    đại (1945 – 1975), Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội.
    11. Nguyễn Bính (1941), Tâm hồn tôi, Impr. Lê Cường, Hà Nội.
    12. Huy Cận (1940), Lửa thiêng, Nxb Đời nay, Hà Nội.
    150
    13. Huy Cận, Hà Minh Đức (1993), Nhìn lại một cuộc cách mạng trong thi
    ca (60 năm Phong trào Thơ mới), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
    14. Huy Cận (1992), “Về phong trào “Thơ mới” – Bài viết chưa công bố của
    Huy Cận”, www.honviet.com.vn
    15. Nguyễn Phan Cảnh (2006), Ngôn ngữ thơ, Tái bản, Nxb Văn học, Hà
    Nội
    16. Đoàn Văn Cừ (1960), Thôn ca, Nxb Văn học, Hà Nội.
    17. Nguyễn Cừ, Nguyễn Thị Huế, Trần Thị An biên soạn (2003), Tuyển tập
    tục ngữ - ca dao Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội.
    18. Đỗ Hữu Châu (1997), Từ vựng - ngữ nghĩa tiếng Việt, Nxb Đại học
    Quốc gia, Hà Nội.
    19. Vũ Hoàng Chương (1941), Thơ say, Impr. Cộng Lực, Hà Nội.
    20. Nguyễn Hồng Cổn (2008), “Cấu trúc của câu tiếng Việt: chủ - vị hay đề
    - thuyết”, http://ngonnguhoc.org.
    21. Cao Hữu Công, Mai Tổ Lân (2000), Nghệ thuật ngôn ngữ thơ Đường,
    Trần Đình Sử, Lê Tẩm dịch, Nxb Văn học, Hà Nội.
    22. Phạm Văn Diêu (1953), Việt Nam văn - học giảng bình, Sách giáo khoa
    Tân Việt, Nxb Tân Việt, Sài Gòn.
    23. Xuân Diệu (1992), Thơ thơ, Tái bản (Theo đúng bản in lần đầu năm
    1938), Nxb Hội Nhà văn, TP Hồ Chí Minh.
    24. Xuân Diệu (1945), Gửi hương cho gió, Nxb Thời đại, Hà Nội.
    25. Xuân Diệu (1984), Công việc làm thơ, Nxb Văn học, Hà Nội.
    26. Xuân Diệu (1998), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, In lần thứ 3, Nxb Văn
    học, Hà Nội.
    27. Nguyễn Du (1966), Truyện Kiều, Nxb Văn học, Hà Nội.
    28. Khương Hữu Dụng dịch (1996), Thơ Đường, Nxb Đà Nẵng.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...