Chuyên Đề Ngôn ngữ bản tuyên ngôn độc lập – một hình ảnh độc lập của tiếng việt

Thảo luận trong 'Ngôn Ngữ Học' bắt đầu bởi Bống Hà, 29/9/13.

  1. Bống Hà

    Bống Hà New Member

    Bài viết:
    5,424
    Được thích:
    2
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    NGÔN NGỮ BẢN “TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP” – MỘT HÌNH ẢNH
    ĐỘC LẬP CỦA TIẾNG VIỆT
    GS. TS. Đinh Văn Đức


    1- Cách mạng Tháng Tám thành công đã khai sinh ra một nước Việt Nam độc lập. Nước Việt Nam độc lập thì tiếng Việt cũng được độc lập. Độc lập là tiếng nói và chữ viết trở thành chính danh. Mệnh đề ấy rất đơn giản nhưng lại hoàn toàn không đơn giản chút nào trong sự nghiệp đấu tranh cho văn hoá của dân tộc Việt Nam.
    Tiếng Việt “là thứ của cải vô cùng lâu đời, vô cùng quý báu của dân tộc” (Hồ Chí Minh, 1962), là công cụ hữu hiệu trong phát triển và giữ gìn văn hoá Việt Nam suốt chiều dài lịch sử. Nhưng tiếng Việt, cho đến ngày Cách mạng Tháng Tám, mới thật sự là thứ ngôn ngữ chính danh. Bản “Tuyên ngôn Độc lập” mà Hồ Chủ Tịch đọc ngày 2 tháng Chín năm 1945 là một minh chứng cho điều tiếng ta đã thật sự trở thành một tiếng độc lập.
    2- Sau cả ngàn năm Bắc thuộc, chữ Hán đã có một cương vị đáng kể trong đời sống nước ta do các tiếp xúc ngôn ngữ và cả chính sách hướng tới việc đồng hoá văn hoá. Mặc dù người Việt đã có những cố gắng tự chủ cao độ, mà biểu hiện rõ nhất trong việc hình thành cách đọc Hán-Việt, thế nhưng, ngay cả sau thế kỷ thứ mười, khi nước ta đã giành độc lập, chữ Hán vẫn được coi là chính danh trong giáo dục-đào tạo (hệ thống khoa cử), trong hệ thống văn bản quản lý nhà nước (từ Chiếu chỉ và các Châu bản của nhà vua) và trong sáng tác văn chương (dòng văn học chữ Hán). Các văn kiện nổi tiếng về nền độc lập dân tộc như bài thơ “Nam Quốc Sơn Hà” (tương truyền của Lý thường Kiệt, hay “Bình Ngô Đại cáo” (của Nguyễn Trãi), đều được viết bằng chữ Hán. Phải đến “Tuyên Ngôn Độc Lập” (1945) cuả Hồ Chí Minh ta mới có một văn kiện chính thức đầu tiên về nền Độc lập dân tộc được viết bằng tiếng Việt, chữ Việt một cách chính danh. Ngôn ngữ “Tuyên Ngôn Độc Lập” là một sản phẩm đẹp đẽ của tiếng Việt chuẩn mực và hiện đại. Một hòn ngọc văn hoá qua tay một thợ kim hoàn điêu luyện.
    3- Ngôn ngữ “Tuyên ngôn Độc lập” là ngôn ngữ chính luận của một áng hùng văn đầy cảm xúc và của một ý chí sắt đá. Thành công của ngôn ngữ trong văn bản này có thể nhận thấy trên nhiều phương diện.
    Trước hết nói về ngôn từ và văn bản.
    “Tuyên ngôn Độc lập” có ba nội dung cợ bản. Ba nội dung ấy được tác giả gói gọn trong ngôn từ của lời kết: “ Nước Việt Nam có quyền hưởng Tự do, Độc lập, và sự thật, đã trở thành một nước Tự do, Độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền Tự do, Độc lập ấy”.
    Đây là một Tuyên bố Nhà nước, một văn bản Quốc gia chính thức cho nên, theo thông lệ của các chuẩn mực, người viết đã chọn dùng ngôn ngữ luật pháp chứ không phải ngôn ngữ hành chính để thể hiện. Theo đó, tác giả đã không xuất phát từ cái ý chủ quan của riêng mình mà bắt đầu văn bản bằng việc nêu lên một chân lý khách quan, vốn đã thấy trên chính trường quốc tế: “Mọi người sinh ra đều bình đẳng”, “Tạo hoá đã cho họ những quyền không thể xâm phạm được trong đó có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” để chứng minh cái quyền dân tộc tất yếu của Việt Nam. Lối biểu đạt này cũng làm ta nhớ ngay đến cách nói tương tự trong những tuyên ngôn về Xã Tắc ngày trước của ông cha ta:
    “ Nam Quốc sơn hà Nam Đế cư,
    Tiệt nhiên định phận tại Thiên thư”
    Hay trong “Bình Ngô đại Cáo”:
    “ Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
    Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”.
    Nguyễn Trãi
    Đã là tuyên ngôn thì phải nói ngay được cái chân lý, cái cốt lõi. Các phân tích ngôn từ triển khai tiếp theo sẽ bám vào đó mà thể hiện các lập luận.
    Ngôn ngữ văn bản này được viết rất giản dị nhưng tổ chức cực chặt chẽ. Các liên kết lô gích và liên kết mạch lạc làm nòng cốt cho việc triển khai các lập luận cơ bản. Đó liên tục là một chuỗi của các lập luận: Lập luận về quyền dân tộc, lập luận về việc thực dân Pháp vi phạm các quyền đó, lập luận về thời cơ của vận nước, lập luận về quyền và trách nhiệm của dân tộc Việt Nam, lập luận về quyết tâm của chính phủ và nhân dân Việt Nam trong việc giữ gìn quyền độc lập và tự do.Một đặc trưng khác là cùng với lập luận chặt chẽ, lời văn của Tuyên ngôn hết sức trang trọng và lịch sự.
    4- Trong đời hoạt động cách mạng, Bác Hồ đã viết rất nhiều văn bản bằng tiếng Việt. Theo chúng tôi, trong số đó, có năm văn bản điển hình được Bác viết ở những thời điểm khác nhau, với những mục đích khác nhau và với cá tính sáng tạo khác nhau và những với cảm xúc khác nhau. Phải làm một phép so so sánh thì sẽ thấy rõ đặc diểm của văn bản này:
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...